Áo
Lụa Hà Đông là một bài hát nổi tiếng của Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, được phổ Nhạc từ bài Thơ cũng rất nổi tiếng của Thi
sĩ Nguyên Sa (Trần Bích Lan).
Ai
trong chúng ta cũng từng một lần hát bài hát trên, nhưng ít người biết xuất xứ bài Thơ từ một cuộc thi Hoa hậu đầu
tiên ở Việt Nam. Vào năm 1930, xứ Bắc Kỳ tổ chức cuộc thi hoa hậu ở Hà
Nội, cho bất cứ ai, làm nghề gì, không kể tuổi tác... miễn là khi đi thi phải mặc Áo Lụa Hà Đông.
Cuối cùng, người được đăng quang trong cuộc thi là người đẹp Lý Lệ Hằng. Cô xuất
thân từ một gia đình nông dân nghèo ở Thái Bình, vì mưu sinh phải trôi nổi lên
Hà Nội kiếm sống và làm nghề hát cô đầu cho các quán rượu.
Sau
khi thay đổi cuộc đời, Cô trở nên nổi tiếng và là niềm ước mơ của bao Công tử
nhà giàu trong cả nước. Tuy nhiên chẳng ai có thể với tới được người đẹp “chân
lấm, tay bùn” này và chỉ một thời gian sau Lý lệ Hằng trở thành người tình của
Quốc Vương Bảo Đại.
Có
lẽ cũng như bao chàng trai si mê sắc đẹp khác, dù đã trải qua hơn 20 năm sau,
nhà thơ Nguyên Sa vẫn mơ tưởng đến nụ cười, ánh mắt khuynh đảo của Hoa hậu đầu
tiên và buộc Ông phải viết bài thơ ca ngợi người đẹp mặc áo lụa ấy.
Mãi
đến năm 1969, khi nghe câu chuyện về Hoa hậu “thuần nông” phút chốc trở thành
người yêu của ông Vua cuối cùng Việt Nam, chàng
trai Ngô Thụy Miên đã viết nên ca khúc nổi tiếng “Áo Lụa Hà Đông” khi mới 21 tuổi,
được phổ lời từ bài Thơ của Nguyên Sa như để ngưỡng mộ những cô gái tựa như đóa
sen vươn lên từ đầm lầy.
Và
đây là nguyên văn bài thơ Áo Lụa Hà Đông:
Nắng Sài gòn anh đi mà
chợt mát
bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
anh vẫn nhớ em ngồi đây
tóc ngắn
mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
bay vội vã vào trong hồn mở cửa
mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
bay vội vã vào trong hồn mở cửa
gặp một bữa, anh đã mừng
một bữa
gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
thơ học trò anh chất lại thành non
và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
thơ học trò anh chất lại thành non
và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
em không nói đã nghe từng
giai điệu
em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
em chợt đến, chợt đi,
anh vẫn biết
trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
để anh giận, mắt anh
nhìn vụng dại
giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
em đi rồi, sám hối chạy trên môi
những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
em đi rồi, sám hối chạy trên môi
những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
em ở đâu, hỡi mùa thu
tóc ngắn
giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Vậy
Lụa Hà Đông xuất xứ ra sao mà đã đi vào Thơ Nhạc lãng mạn như thế?
Cách
Hà Nội 10km có một làng chuyên nghề dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng có từ ngàn năm
trước, là Làng lụa Hà Đông hay Làng lụa
Vạn Phúc, thuộc quận Hà Đông. Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn
còn giữ được ít nhiều nét cổ kính quê ngày xưa như hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng
nước, sân đình, buổi chiều vẫn họp chợ dưới gốc đa trước đình…
Làng
Vạn Phúc vốn có tên Vạn Bảo, do kị húy nhà Nguyễn nên đã đổi thành Vạn Phúc.
Theo truyền thuyết, cách đây khoảng 1200 năm, có bà A Lã Thị Nương là vợ của Thái Thú Giao Chỉ là Cao Biền, từng sống ở
trang Vạn Bảo, đã từng dạy dân cách làm ăn và truyền nghề dệt lụa. Bà Lã Thị
Nga, vốn người Hàng Châu (nơi có thương hiệu lụa Hàng Châu nổi tiếng), theo chồng
chinh chiến khắp nơi rồi ở lại nơi này. Thấy dải đất trù phú ven sông Nhuệ xanh
trong, bà dạy người dân trồng dâu, nuôi tằm rồi cho những người thợ lành nghề
nhất đến dạy ươm tơ, dệt vải. Từ một ấp nhỏ, Vạn Phúc đã phát triển thành làng
nghề sôi động, nức tiếng gần xa. Sau khi mất, bà được phong làm Thành hoàng
Làng.
Lụa
Vạn Phúc được giới thiệu lần đầu ra quốc tế tại các hội chợ Marseille (1931) và
Paris (1932), được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo của vùng Đông
Dương thuộc Pháp. Trong tổng số 18 thợ thủ công lành nghề Việt Nam được vinh
danh trong 2 cuộc triễn lãm trên, thì có 3 người là con của đất tơ tằm Vạn Phúc
(trong đó có cụ Nguyễn Chấp Chung, cụ nội nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh hôm nay,
người đang làm lụa khá nổi tiếng tại Vạn Phúc). Từ 1958 sản phẩm lụa Vạn Phúc hầu
hết được xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên Thế giới. Đến ngày nay, làng Vạn Phúc
có khoảng hơn 1000 khung dệt, trong nhiều gia đình, khung dệt cổ vẫn được giữ lại,
xen lẫn với các khung dệt cơ khí hiện đại. Lụa Vạn Phúc có nhiều mẫu hoa văn và
lâu đời bậc nhất Việt Nam và từng được chọn may trang phục cho Triều đình.
Đặc
biệt, theo Ca dao truyền miệng, nổi tiếng nhất trong các loại lụa Vạn Phúc có lẽ
là lụa Vân – loại lụa mà hoa văn nổi vân trên mặt lụa mượt.
the La, lĩnh Bởi, chồi
Phùng
lụa Vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ Bôn.
lụa Vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ Bôn.
Lụa
Vân nói riêng và lụa Vạn Phúc nói chung có đặc điểm ấm áp vào mùa đông và mát mẻ
vào mùa hè. Hoa văn trang trí trên vải lụa rất đa dạng như mẫu Song hạc, mẫu Thọ
Đỉnh, mẫu Tứ Quý…
Tóm
lại, với đặc tính mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông, nhẹ nhàng, mềm mại làm nên
giá trị vật chất của Lụa thì cái hồn cốt, cái in dấu trong lòng người từ bao
năm qua lại nằm ở cái tình mà người Làng lụa gửi gắm đến chúng ta hôm nay: “Tiếng
thơ buồn vọng lại…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét