Nhãn

11 tháng 5, 2015

861. NƯỚC NGA TRỞ LẠI THỜI TRUNG CỔ


Một bài hay, tự truyện của nhà văn Nga Mihail Siskin, thêm cho người đọc VN một góc nhìn về cái gọi là "Liên Xô giải phóng châu Âu khỏi Đức quốc xã". Từ niềm tự hào là công dân của một quốc gia thắng trận, đến nỗi thất vọng khi sự hy sinh xương máu của những người lính làm nên chiến thắng bị lợi dụng trở thành mục tiêu cho tham vọng quyền lực sắt máu của một nhóm vài cá nhân.

Cuối bài, tác giả chua chát nhận ra rằng họ - nhân dân Nga - là những người thua trận!

Chú thích:
- Bản tiếng Việt do anh Cuong Nguyen dịch từ bản tiếng Phần Lan của Vappu Orlov.

- Có sửa một câu trong bản tiếng Việt cho dễ hiểu, từ "Lúc cha tôi sáu tuổi, cha của ông ấy bị bắt giữ" trở thành "Ông nội tôi bị bắt giữ lúc cha tôi được 6 tuổi (GKP).
-----

NƯỚC NGA TRỞ LẠI THỜI TRUNG CỔ

Nhà báo người Nga Mihail Siskin suy nghĩ gì trong ngày Chiến thắng qua bài viết của mình, nước Nga đã thắng hay thua trận.

Cha tôi tình nguyện đi chiến đấu khi ông 18 tuổi. Ông phục vụ dưới tàu ngầm ở vùng biển Baltic.

Hồi còn nhỏ, gia đình tôi sống trong một căn hộ ở dưới tầng hầm vùng Arbatti và trên tường, phía trên giường của tôi có treo bức ảnh chụp ”Con cá chó” của ông. Hồi đó, tôi vô cùng tự hào rằng cha tôi có chiếc tàu ngầm, và tôi đã sao chép lại tấm ảnh đó vào quyển vở học sinh. Mỗi năm, cứ đến ngày 9 tháng năm là cha tôi lại lấy trong tủ ra bộ quân phục của lính hải quân mà ông đã phải sửa đi sửa lại khi bụng cứ to dần, rồi gắn lên đó tất cả những huân chương của mình. Đối với tôi, điều rất quan trọng để tự hào về người cha: hồi đó có chiến tranh và cha tôi đã chiến thắng!

Khi lớn lên tôi mới biết là trong những năm 1944 1945, cha tôi đã bắn chìm nhiều tàu của Đức chở người tị nạn từ hai thành phố Riga và Tallin (thủ đô của Latvia và Estonia). Hàng trăm hàng nghìn người đã bị chìm sâu dưới đáy biển Baltic – vì chiến công này mà cha tôi đã được trao tặng huân chương. Đã bao lâu nay tôi không còn tự hào về ông ấy nữa, nhưng tôi cũng không lên án ông ta. Hồi ấy có chiến tranh.

Sau chiến tranh, ông uống rượu suốt cuộc đời của mình. Và cũng như tất cả các đồng đội tàu ngầm của mình. Chắc là họ cũng không chịu đựng nổi. Ông ấy còn quá trẻ khi tham gia chiến tranh bao năm tháng trên biển và luôn luôn lo sợ rằng mình sẽ bị chết chìm trong cái quan tài sắt đó. Chẳng bao giờ có thể thoát khỏi những chuyện như vậy.

Thời Gorbatsov, thời kỳ đói kém thực sự, cha tôi vì là cựu chiến binh nên đã nhận được những thùng cứu tế mà trong đó là những thực phẩm từ nước Đức. Đây là một điều sỉ nhục cá nhân đối với cha tôi. Ông và đồng đội của mình, trong suốt cuộc đời, luôn cảm thấy mình là người chiến thắng, nhưng giờ đây ông buộc phải nuốt những miếng ăn bố thí do kẻ thù mà mình đã từng thắng ném cho.

Lần đầu tiên khi mang về thùng quà cho gia đình, cha tôi đã uống say mèm và la hét: chúng ta là kẻ chiến thắng mà! Nhưng sau đó ông lặng câm, bắt đầu khóc và liên tục hỏi, chẳng biết hỏi ai, hướng về phía tôi: nói đi, chúng ta là kẻ thắng trận hay thua trận đây?

Trong những năm cuối đời, cha tôi đã thực sự hủy hoại thân mình bằng rượu votka. Tất cả các đồng đội tàu ngầm của cha đã uống để chui xuống mồ cách đây lâu lắm rồi. Chắc hẳn là cha tôi cũng đang vội vã đi gặp đồng đội của mình. So với các đồng đội tàu ngầm của mình thì cha tôi có tuổi thọ cao nhất. Ông được thiêu trong lò hỏa táng Moskva trong bộ quân phục của mình.

Trong mười sáu năm cầm quyền Putin đã đạt được tất cả những gì mà một kẻ độc tài muốn có. Được dân chúng yêu mến và kẻ thù lo sợ. Ông ta đã tạo lập nên một chính quyền mà những điều luật lung lay của hiến pháp không thể kiềm chế, nhưng được tạo dựng nên bởi những điều luật không lay chuyển nổi của sự trung thành của các chư hầu đối với bá vương – từ đáy cho tới đỉnh của kim tự tháp.

Chế độ độc quyền của thế kỷ 21 này đã nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm của những người đi trước nhằm tránh khỏi những sai lầm của những người đi trước: biên ải được mở rộng và tất cả những ai bất mãn (với chế độ) đều có quyền rời bỏ đất nước để ra đi.

Làn sóng di dân mới tăng dần theo tháng năm. Rời bỏ quê hương toàn là thành phần ưu tú: những nhà nghiên cứu, những chuyên viên công nghệ thông tin, các nhà báo, kỹ sư, doanh nhân. Những mất mát mang tính chất thảm họa nhân bản này làm suy yếu đất nước, nhưng lại làm cho chính quyền thêm vững mạnh. Những người ở lại được dành cho một toa thuốc đã trải qua thực nghiệm: chiến tranh.

Sự cuồng loạn vì lòng yêu nước xuất phát từ truyền hình (TV) là một vũ khí huyền diệu của chính quyền. Cái ”Hòm ma cà rồng” này (truyền hình – người dịch) đã tạo dựng cho người dân một thế giới quan lý tưởng: tây phương muốn chúng ta bị hủy diệt, cho nên cha ông cũng như tổ tiên của chúng ta phải phát động cuộc thánh chiến để chống lại chủ nghĩa phát-xít và chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả để giành lấy chiến thắng. Và những ai đứng lên chống lại điều này là kẻ phản quốc.

Bất kể lý tưởng là gì – đạo thiên chúa giáo chính thống (orthodox), chủ nghĩa cộng sản, hay lại là thiên chúa giáo chính thống – thì chính phủ luôn lấy lòng yêu nước để thao túng người dân.

Ông nội tôi bị bắt giữ lúc cha tôi vừa 6 tuổi. Ông nội tôi bị mất tích trong gulag (trại cải tạo lao động Liên Xô). Đứa con trai (cha tôi – ND) muốn tự hào về cha mình, nhưng người cha ấy lại là kẻ thù của nhân dân. Thế nhưng, khi xảy ra chiến tranh thì những người dân vốn bị chính quyền đánh đập trước đó bỗng nhiên lại được nghe loa phường gọi một cách thân mến: ”Các anh và các chị!”

Điều nhơ bẩn của chính quyền được thể hiện là họ đã và đang luôn luôn cũng như sẽ tiếp tục lợi dụng cái tâm huyết nhân bản tuyệt vời (của dân chúng): lòng yêu nước và sẵn sàng hy sinh tất cả vì điều đó. Sự độc tài đã tự biến mình thành tổ quốc. Cha tôi đã xông pha ra chiến trường để bảo vệ tổ quốc, nhưng thực ra ông ấy đã bảo vệ cái chính quyền đã sát hại cha của mình.

Đây là chiến thắng hay thất bại đáng mong đợi đối với đất nước? Đối với người yêu nước thì điều này quả là một câu hỏi lạ lùng, nhưng cũng không đến nỗi lạ lùng khi mà trải qua bao thế kỷ, tổ quốc chẳng hề ban phát cho thần dân nước mình cũng như kẻ ngoại bang một cơ hội sống còn nào cả.

Trong sự hiểu biết của người dân, mãi cho đến cuối cùng vẫn không sáng tỏ, tổ quốc chấm hết ở đâu và từ đâu bắt đầu một chính quyền tội phạm – cả hai cái này đều dính chặt với nhau và cùng nhau lớn lên. Tình yêu tổ quốc là một con bò thần của người dân Nga, con bò ợ lên rồi nhai lại những thứ như nhân quyền và sự tự trọng cá nhân như nhai kẹo cao su.

Đối với người Nga câu hỏi quan trọng nhất: nếu tổ quốc là con quái vật thì mình nên yêu hay ghét nó? Đã từ lâu, điều này được thể hiện qua câu thơ của người Nga: ”Trái tim không thể học được yêu thương những gì nó đã mệt mỏi vì thù hận.” (Xin lỗi. Vì không biết làm thơ nên xin tạm dịch nguyên văn ý thơ)

À này, có phải Chikatilo, kẻ giết người hàng loạt nổi tiếng có phải cũng là người cha không. Có lẽ ông ta là một người cha tốt. Vậy thì đứa con trai (của ông) phải đối xử với ông ta thế nào?

Chikalo đã sát hại mấy chục mạng người. Tổ quốc của tôi thì lại sát hại hàng triệu, hàng triệu người. Kể cả người ngoại bang lẫn đồng bào của mình. Đồng bào của mình thì nhiều hơn rất nhiều. Và không thể nào chấm dứt.

Cha tôi đã chiến đấu để chống lại tội ác của chủ nghĩa phát-xít, nhưng ông ta ta bị một tội ác (tội đồ) khác lợi dụng. Ông ấy và hàng triệu người lính xô-viết khác, những người đã trở thành nô lệ, đã không mang lại cho thế giới một sự giải phóng mà chỉ là một nền nô lệ khác. Người dân đã hy sinh tất cả vì chiến thắng, nhưng hoa quả của chiến thắng lại là mất tự do và đau khổ.

Chiến thắng không đem lại cho kẻ nô lệ điều gì khác ngoài cảm nhận sự vĩ đại của chủ nhân. Chiến thắng to lớn chỉ xác nhận sự nô lệ to lớn của họ mà thôi.

Và giờ đây người Nga lại được kêu gọi ra trận để chống lại chủ nghĩa phát-xít.

Không biết đã bao nhiêu lần trong lịch sử, kẻ độc tài đã dùng chiêu bài yêu tổ quốc để duy trì quyền lực của mình. Trên màn truyền hình tiếng hò hét loạn cuồng càng to hơn: ”nước Nga vĩ đại”, ”chúng ta hãy đứng lên”, ”trả lại đất đai của người Nga”, ”bảo vệ tiếng Nga”, ”tập hợp thế giới của người Nga”, ”chúng ta hãy bảo vệ thế giới thoát khỏi chủ nghĩa phát-xít”.

Từ chính phủ này đến chính phủ khác, họ luôn giăng câu người dân bằng cái mồi yêu tổ quốc, nay họ đang giăng câu và trong tương lai họ cũng sẽ giăng câu. Một lần nữa, nền độc tài lại kêu gọi thần dân bảo vệ tổ quốc để bảo vệ chính mình. Và hệ thống tuyên truyền, bất chấp mọi thủ đoạn, tận dụng chiến thắng đã đạt được trong chiến tranh vì tình yêu tổ quốc vĩ đại (để mị dân). Dân tộc của tôi (Nga) đã bị lấy đi dầu mỏ, đã bị lấy đi bầu cử (tự do), đã bị lấy đi đất đai. Cả chiến thắng cũng bị lấy đi.

Lịch sử đang được viết lại, trong đó chỉ để lại những chiến thắng trong các cuộc chiến và danh dự của người lính. Các sách giáo khoa được thêm một chương về sự hoàn trả vinh quang của Crime. Đang đợi viết một chương tiếp theo: Kiev, như một thằng con hoang đàng, lê gối để sà vào lòng thế giới Nga.

Những kẻ côn đồ thuộc quyền lực của Nga đã và đang kích động lòng hận thù giữa hai dân tộc chúng ta (Nga và Ucraina). Qua truyền hình họ đã phạm phải sự xảo trá không thể tha thứ: họ đã làm cho người Nga và Người Ucraina chống đối nhau.

Cha tôi là người Nga, mẹ tôi là người Ucraina. Bây giờ, đôi lúc tôi nghĩ: cha mẹ tôi chết đi là một điều tốt, vì họ không biết, người Nga và người Ucraina đang tàn sát lẫn nhau.

Việc sát nhập Crime (vào nước Nga) đã mang lại cho ông Putin lợi ích của lòng yêu nước. Nhưng cái đó đã xuống dốc rồi, bây giờ ông ta cần có lòng yêu nước mới. Đối với chế độ độc tài thì hành động chiến tranh không quan trọng bằng tình trạng chiến tranh. Điều xấu nhất đang ở phía trước.

Ngày 9 tháng năm trên nước Nga của Putin đã cách xa chiến thắng của dân tộc, chiến thắng của cha tôi. Đó không phải là ngày hòa bình và cũng không phải ngày tưởng niệm những nạn nhân, mà là ngày vung vũ khí, ngày gây hấn, ngày chiến tranh giữa dân mình với ngoại bang, ngày của những chiếc hòm áo quan bằng thiếc, ngày của sự đại gian dối và đại xảo trá.

Dĩ nhiên, tôi mong muốn sự chiến thắng cho tổ quốc tôi. Thế nhưng, chiến thắng cho đất nước tôi là gì đây? Mỗi chiến thắng của Hitler là một thất bại cho dân tộc Đức. Và sự sụp đổ cuối cùng của phát-xít Đức là chiến thắng vĩ đại dành cho người dân Đức, bởi vì họ là những người đầu tiên trong lịch sử đã cho ta thấy, làm thế nào để một dân tộc có thể hồi phục và sống làm người, không hề bị điên loạn bởi chiến tranh.

Trước mắt của chúng ta, nước Nga từ thế kỷ 21 đã quay trở lại thời trung cổ. Một đất nước mà nơi đó không khí chứa đầy thù hận, không thể hít thở. Trong lịch sử, tiếp sau lòng hận thù lớn là sự đổ máu lớn. Điều gì đang chờ đợi đất nước của tôi? Nó có bị biến thành đại Donbass không?


Bố ơi, chúng ta đã thua trận rồi.

860. Bạn có quyền quay phim CSGT


Nhà báo hay người dân quay phim, chụp ảnh CSGT đang làm nhiệm vụ công khai, không phải ở khu vực cấm thì không vi phạm pháp luật, đại diện đến từ Bộ Tư pháp khẳng định.

Trả lời Infonet, ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cho biết: Với chỉ đạo này của Công văn số 1042, chúng tôi thấy việc nêu 2 nhóm hành vi “có lời nói đe dọa, lăng mạ”, “hành vi chống đối cảnh sát giao thông” với hành vi “quay phim, chụp ảnh hoạt động TTKS, XLVP khi chưa được phép đồng ý của Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ” đã thể hiện sự thiếu thận trọng khi kết nối các nhóm hành vi có bản chất, mức độ khác nhau.


Nữ CSGT tạo hình ảnh đẹp trong mắt người dân

Có thể hiểu, khi bất kỳ người nào quay phim, chụp ảnh hoạt động TTKS, XLVP buộc phải “được phép đồng ý” của CSGT đang làm nhiệm vụ. Và CSGT có quyền yêu cầu xuất trình giấy tờ để xác định là “được phép” hay chưa, và xác định “đúng là nhà báo hay giả danh nhà báo” đã không phù hợp với các quy định hiện hành về quyền của nhà báo (hoặc người dân) khi quay phim, chụp ảnh, bởi vì pháp luật hiện hành chỉ quy định trường hợp vì bí mật nhà nước, các khu vực an ninh, quốc phòng mà có quy định cấm hoặc hạn chế người dân hoặc phóng viên quay phim chụp ảnh thì mới buộc công dân phải tuân thủ khi quay phim, chụp ảnh.

Về nguyên tắc, cán bộ, chiến sỹ CAND trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ duy trì trật tự ATGT đường bộ được giao phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Qua rà soát, Cục KTVB chưa thấy có quy định nào của pháp luật cấm công dân quay phim, chụp ảnh cán bộ, công chức và chiến sỹ công an đang thi hành công vụ (nếu không thuộc các trường hợp cấm, hạn chế).

"Như vậy, việc công dân thực hiện quay phim, chụp ảnh lực lượng CSGT, TTKS, XLVP không phải là hành vi bị pháp luật cấm. Hơn nữa, cán bộ, chiến sỹ CAND, CSGT không được quyền truy hỏi người đang quay phim, chụp ảnh là được phép hay không được phép, cũng không được quyền truy xét về giấy tờ để xác định là nhà báo hay giả danh nhà báo", ông Sơn khẳng định.

Việc Công văn số 1042 quy định nội dung “Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản”, theo chúng tôi càng thể hiện rõ hơn việc trao quyền cho CSGT truy hỏi, truy xét về giấy tờ, danh tính của người quay phim, chụp ảnh để xác định “đúng là nhà báo” hay “giả danh nhà báo”.


Văn bản 1042/C67 - P3 ngày 26/4 của Cục CSGT do Đại tá Trần Sơn Hà ký gây tranh cãi trong mấy ngày vừa qua

Nội dung “tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản” còn giao quyền tập hợp thông tin để thông báo cho cơ quan chủ quản cũng không phù hợp với nhiệm vụ của CSGT khi TTKS, XLVP.

Mặt khác, quay phim, chụp ảnh CSGT khi đang TTKS, XLVP không phải là ghi hình riêng tư của một hay một vài cá nhân cụ thể (không thuộc phạm trù bí mật đời tư theo quy định tại Điều 31 BLDS), mà là ghi hình ảnh thi hành công vụ của cơ quan, cá nhân đại diện cho Nhà nước tại nơi công cộng (công khai) là bình thường khồng cần phải được CSGT (hay bất cứ cá nhân nào) có mặt ở nơi công cộng này “cho phép”.

Đó là việc giám sát hoạt động lực lượng thực thi công vụ hết sức bình thường của mỗi công dân. Nhờ những hoạt động này mà những hình ảnh đẹp của lực lượng CSGT được tôn vinh, những sai phạm được kịp thời phát hiện, xử lý.

Theo quy định của Luật Báo chí hiện hành thì một trong những nhiệm vụ của báo chí là: “Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới; đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác” (khoản 4 Điều 6); Nhà báo có quyền: “Khai thác và được cung cấp thông tin trong hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật” (điểm b khoản 1 Điều 15) và nhà báo có nghĩa vụ: “Bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm” (điểm b khoản 2 Điều 15). Khi nhà báo tác nghiệp đúng Luật Báo chí thì không ai có quyền ngăn cản, truy xét.

Đối với mọi công dân khác (ngoài nhà báo) quay phim, chụp ảnh trong các trường hợp đã nêu, theo chúng tôi cũng không phải là hành vi sai trái. Người dân hoàn toàn có quyền thực hiện việc này nếu không thuộc trường hợp pháp luật cấm hoặc hạn chế. Cũng không phải vì người đang quy phim, chụp ảnh “không phải là nhà báo” mà dễ dàng quy kết là giả danh nhà báo”.

Theo ông Sơn, việc xác định một công dân quay phim, chụp ảnh là “nhà báo”  hay “giả danh nhà báo” tại nội dung Công văn số 1042 là điều không phù hợp với chức năng, thẩm quyền của cán bộ, chiến sỹ CSGT khi tuần tra kiểm soát, xư lý vi phạm.


Xuân Hải

7 tháng 5, 2015

859. GS Nguyễn Tuấn: Phân tích đặc điểm các phát ngôn của giới lãnh đạo Việt Nam

chuẩn cmnr :D - em tks bác, giờ em đã bik tại sao mỗi khi tình cờ nghe các vị í phát biểu trên TV em lại bị tăng xông chỉ muốn cầm cái thước vụt vào cái mỏ các vị í và hỏi: cái j? nói rõ ra xem nào? nghĩa là j? dkm nói như căng củ cọt ... mỗi lần hỏi là 1 thước các bác ợ :))
P/S: em bổ sung còn 2 câu "nhạy cảm" và "thế lực thù địch" nữa ạ


Sẵn dịp bàn về danh ngôn, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài nhận xét và phân tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo VN. Có khi nào các bạn tự hỏi tại sao người ta không muốn đọc những bài viết của giới lãnh đạo, và khi họ viết hay nói ra cái gì thì rất ít người đọc. Người đọc thì chê (ví dụ như bài của vị nào đó trên Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy lần like). Tôi tự hỏi câu này rất thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú vị dưới đây, mà tôi nghĩ có thể giải thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo VN kém hấp dẫn. Đây là bài viết còn ở bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý mới.

Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn như khi nói về những việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17, thủ tướng Úc nói “Mục tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá cố và người đang sống”. Đó là một câu có thể trích dẫn.

Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:

Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có thể nói rằng thói quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính khách VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”. Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là những rhetoric tầm thường, giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai chữ “phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai chữ “phức tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.

Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam”. Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận ngoại giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Ví dụ như bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… được phát huy”. Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”, “phát huy”, “hiệu quả thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh họa. Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.

Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là “đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe qua “đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ cực kì vô duyên và vô dụng.

Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo VN quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu quyết theo tinh thần đó”. Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu. Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của nhân dân”. Câu chữ cứ nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng có gì để nói!

Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau. Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu “Trong niềm tự hào, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới …”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây. Thật ra thì ông cụ đâu được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là một “đặc sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh”. Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con người anh hùng, vẻ đẹp văn hóa, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại xâm.

Thứ năm là … tự khen. Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến tự mình khen mình là tài giỏi và vĩ đại, và đặc tính này tôi thấy khá thường xuyên. Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỉ niệm 40 năm ngày 30/4: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng". Thật ra, đó là tựa đề của bài viết, mà dài như thế! Nhưng một phần tựa đề này là những khẩu hiệu chúng ta hay gặp trong suốt mấy thập niên qua. Cứ đề cập đến đảng là phải kèm theo những tính từ như sáng tạo, lỗi lạc, đứng đắn, quang vinh, vĩ đại, v.v. Tôi không bàn đến đúng hay sai về nội dung, mà chỉ muốn nói rằng rất hiếm thấy một tổ chức hay cá nhân nào mà tự khen như thế. Người Việt có câu "Hữu xạ tự nhiên hương", nếu mình làm điều tốt thì sẽ có người ghi nhận, chứ không cần phải tự khen như thế. Tự khen 1 lần thì có lẽ cũng không đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết năm này sang năm khác, và tự khen khắp nơi như dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu lầm là một bệnh lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó là một thói quen của các vị lãnh đạo, hay những người viết diễn văn cho các vị ấy.

Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính hóa. Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ không phải nói với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của họ thường mang tính hành chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa thật của nó, như “Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc”. Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.

Những bài diễn văn của các chính khách phương Tây thường rất sinh động, thực tế, và có khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo phương Tây (tiêu biểu là Mĩ) khi họ nói chuyện dù là trong buổi lễ rất trang trọng, mà họ vẫn làm cho khán giả vừa vỗ tay vừa cười. Khán giả cảm thấy gần gũi với diễn giả. Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì nghiêm trọng). Vì thế mà khi lãnh đạo VN nói chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức là chính họ cũng cảm thấy nhàm chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ tay theo kịch bản hơn là tự nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ do lãnh đạo VN chưa quen với văn hóa nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là người quan trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.


Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh đạo VN, mà thỉnh thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ vướng phải, người dân biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói chung chung. Có người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”, nhưng thật ra đó chỉ là cách ngụy biện thô thiển. VN nói về hội nhập quốc tế, nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi nghĩ các lãnh đạo VN sẽ rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh.