Nhãn

3 tháng 12, 2013

835. Phạm Chí Dũng: Nợ Công và Nợ Xấu


Nợ công và nợ xấu sẽ tiếp tục đè nặng lên những thế hệ tương lai của Việt Nam?

Thụy My (RFI) Phỏng Vấn T/S Phạm Chí Dũng
27/11/2013


Theo các con số chính thức, nợ công của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 55,4% tổng sản phẩm nội địa (GDP) nghĩa là còn trong ngưỡng an toàn. Tuy nhiên hiện nay ngay báo chí nhà nước cũng đã đặt dấu hỏi về con số này, và đưa ra tỉ lệ nợ công lên đến 95% GDP. Trong khi đó, vừa rồi Chính phủ đã đề nghị Quốc hội cho nâng trần bội chi ngân sách lên 5,3% và phát hành thêm 170.000 tỉ đồng trái phiếu. Theo tính toán của một tờ báo trong nước, cứ mỗi ba tháng Việt Nam phải trả nợ một tỉ đô la.

Phải chăng ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt, và hậu quả sẽ như thế nào khi nợ nần tứ phía, tham nhũng lan tràn? Trong tạp chí kinh tế hôm nay, RFI Việt ngữ đã trao đổi về vấn đề này với tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng ở Việt Nam.

RFI: Như anh đã biết, nợ của Việt Nam nếu tính cả những doanh nghiệp mà chủ yếu là của nhà nước thì lên tới 95% GDP, có nghĩa là vượt ngưỡng an toàn mà ngưỡng này được xem là 60%. Anh nhận xét tình hình này như thế nào?

TS Phạm Chí Dũng: Tôi xin nói trước về vấn đề ngưỡng an toàn so với GDP của Việt Nam. Hiện nay theo một số quan chức Việt Nam thì ngưỡng an toàn nằm ở mức 70% chứ không phải 60%. Trong khi đó theo ngưỡng an toàn tiêu chuẩn quốc tế về nợ công trên GDP, thì nợ công là 65%. Nhưng thật ra hiện nay đang có mâu thuẫn rất lớn về đánh giá giữa hai luồng quan điểm, khác nhau hoàn toàn về vấn đề nợ công trên GDP.

Luồng quan điểm thứ nhất thuộc về chính phủ Việt Nam với màu sắc luôn luôn tô hồng, theo như các báo cáo của chính phủ. Đó là tỉ lệ nợ công trên GDP hiện nay chỉ chiếm 55,4%, mà nếu vay nợ thêm thì tỉ lệ nợ công trên GDP cũng chỉ khoảng 60% tức là vẫn còn an toàn, dưới mức 70% cho phép.

Trong khi đó theo một quan điểm độc lập khác thì tỉ lệ nợ công quốc gia trên GDP Việt Nam hiện nay tới 95%. Đánh giá này được nêu ra tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân tại Nha Trang vào tháng 4/2013. Một số chuyên gia phản biện độc lập – tôi nhớ là ở Ba Lan, và kể cả ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã rất bức bối, và lần đầu tiên nêu ra tỉ lệ nợ công hiện nay lên tới 95% GDP. Với điều kiện tính luôn cả nợ và nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước – hiện nay lên tới 1,3 triệu tỉ đồng Việt Nam, tức là khoảng 65 tỉ đô la – lại không được tính vào nợ công quốc gia của Việt Nam.

Nghịch lý là như vậy. Mà khi không tính vào thì tất nhiên tỉ lệ nợ công/GDP của Việt Nam chỉ có 55,4% thôi. Nhưng nếu tính tất cả nợ công của kinh tế nhà nước thì tỉ lệ đó phải lên tới ít nhất 95% GDP.

Còn theo đánh giá của một chuyên gia quốc tế nữa thì tỉ lệ nợ công/GDP không phải là 95% nữa mà là 106%. Đó là một con số khủng khiếp, và điều đó nhắc chúng ta nhớ lại tỉ lệ nợ công/GDP của Philippines trước đây. Nợ công của Philippines vào thời Tổng thống Marcos – được coi là một trong những đời tổng thống tham nhũng nhất của Philippines – lúc đó là 120%, tương đương 120 tỉ đô la, và toàn bộ GDP hàng năm của Việt Nam hiện nay.

Và nếu như mâu thuẫn ở Việt Nam không thể giải quyết được thì người ta đành phải chấp nhận là có một sự chênh biệt tới 50%, giữa báo cáo chính phủ với những đánh giá phản biện về thực tế, hiện tồn ở Việt Nam hiện nay. Do đó cần phải xem lại rất kỹ, rất sâu về nguyên nhân gây ra ung họa ở đâu. Chính là do các tập đoàn nhà nước, chẳng hạn như Vinashin, Vinalines… Mà bản thân những tập đoàn như Vinashin thì chúng ta đã biết họ nợ ít nhất là 84.000 tỉ đồng Việt Nam, tương đương 4 đến 5 tỉ đô la, tức khoảng 6% GDP của Việt Nam.

Đó chỉ mới là một tập đoàn. Còn nhiều tập đoàn khác – chẳng hạn đã xuất hiện những cái tên như Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, kể cả Tập đoàn Điện lực Việt Nam nữa. Tập đoàn này cho tới nay trở thành quán quân về nợ ngân hàng, với tổng số 118.000 tỉ đồng, là tập đoàn nhà nước được các ngân hàng ưu ái vô cùng, thuộc loại được ưu ái nhất Việt Nam.

RFI: Thưa anh, trong tình hình nợ công đã cao như vậy mà còn phải gánh thêm những món nợ – dù Nhà nước không bảo lãnh. Theo luật quản lý nợ công thì những khoản nợ này không được tính vào nợ công quốc gia, nhưng nếu chính phủ phát hành trái phiếu thì cũng là một cách làm tăng nợ lên?

Thực chất việc phát hành trái phiếu chỉ là dùng giấy để mua nợ chứ không phải là dùng tiền thật mua nợ. Cho nên đó là một thủ pháp mà tục ngữ Việt Nam gọi là “đánh bùn sang ao”, mà thực tế không giải quyết bất kỳ vấn đề nào, một nội dung nào về vấn đề nợ xấu. Có nghĩa là nợ xấu vẫn y nguyên! Vậy thì phát hành trái phiếu là cho ai?

Có hai kênh để phát hành trái phiếu. Một là kênh phát hành nội địa cho dân chúng, cho các doanh nghiệp, ngân hàng. Thứ hai là kênh phát hành quốc tế. Chẳng hạn trường hợp tập đoàn tàu thủy Việt Nam Vinashin, chính phủ đã có quyết định cho tập đoàn này phát hành 600 triệu đô la trái phiếu quốc tế.

Như vậy là cũng dùng giấy để giải quyết nợ. Nhưng vấn đề còn lại là có bán được trái phiếu hay không. Tôi không cho là có nhiều hy vọng lắm về việc doanh nghiệp và các tập đoàn nước ngoài kỳ vọng vào việc Vinashin có thể phục hồi một cách vững chắc, để họ có thể mua trái phiếu quốc tế của Vinashin.

Điều đó cho thấy kênh phát hành trong nước hiện nay cũng đang bế tắc, vì gần như tiền không vào lưu thông và tình trạng găm giữ tiền trong dân chúng rất phổ biến, thị trường bất động sản đóng băng. Đó là một minh chứng cực kỳ điển hình. Cho nên việc phát hành trái phiếu nội địa có nhiều khả năng không thành công, các ngân hàng cũng như vậy.

Vấn đề còn lại là nếu tính đúng tính đủ theo năm tiêu chí của Liên Hiệp Quốc về nợ công thì phải cộng luôn cả nợ của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước không xử lý được vào nợ công. Lúc đó tỉ lệ nợ công sẽ không phải là 55% nữa mà sẽ lên ít nhất là 95% GDP.
Nếu như Nhà nước Việt Nam với chính sách hiện nay cứ tiếp tục vay những nguồn vốn được coi là tài trợ quốc tế, chẳng hạn như ODA từ Nhật Bản v.v… dù với lãi suất ưu đãi, vẫn là một gánh nặng đổ lên đầu con cháu. Đời con, đời cháu sẽ tiếp tục phải trả, chứ không phải là thế hệ lãnh đạo hiện nay.

RFI: Ngay cả trong trường hợp trái phiếu phát hành để hỗ trợ cho những tập đoàn quốc doanh lỗ lã có bán chạy đi nữa, nhưng đây không phải là dòng vốn rót vào sản xuất – doanh nghiệp tư nhân không vay được – thì đây có phải là hiện tượng lành mạnh không?

Đó không phải là một hiện tượng lành mạnh đối với khu vực sản xuất, và đối với thực lực của nền kinh tế Việt Nam. Vì đó chẳng qua, tôi nhắc lại, là một thủ pháp để chuyển nợ thành một tờ giấy nào đó mà thôi. Và giấy xét cho cùng cũng chỉ là giấy, vì trái phiếu không có ý nghĩa gì; trong trường hợp phát hành quá nhiều trái phiếu thì vô hình chung lại đẩy mạnh lạm phát. Và nếu không phát hành trái phiếu mà in thêm tiền cũng là lạm phát.

Cho nên ở đây chính phủ buộc phải chọn một phương cách tạm gọi là tương đối an toàn là phát hành trái phiếu. Nhưng tôi muốn nói thêm một khía cạnh thế này: việc phát hành trái phiếu mà không phải dùng tiền mặt để mua nợ xấu cho thấy ngân quỹ Việt Nam đã eo hẹp, và có nhiều dấu hiệu cạn kiệt đến mức như thế nào!

Trong cuộc suy thoái từ năm 2008 đến đầu 2009, tháng 3/2009 chính phủ Việt Nam đã tung ra một gói kích cầu khoảng 143.000 tỉ đồng, tương đương 8 tỉ rưỡi đô la theo tỉ giá hối đoái vào thời điểm đó. Đây là một con số khổng lồ và đã vực dậy nền kinh tế, nhưng đặc biệt vực dậy các thị trường đầu cơ như chứng khoán và bất động sản, còn nền kinh tế chỉ ăn theo những thị trường này mà thôi.

Tuy nhiên trong suốt ba năm suy thoái vừa qua, điều đáng ngạc nhiên là tiền đi đâu? Cuối cùng thì các doanh nghiệp đã không thể kỳ vọng là Nhà nước có thêm một gói kích cầu nào nữa. Gói kích cầu đó đã được hy vọng vào năm 2012, khi nền kinh tế quá khó khăn. Nhưng đến năm nay thì gần như đã chấm dứt hy vọng, vì không có bất kỳ một tín hiệu nào về việc chính phủ có thể tung ra một gói kích cầu. Từ đó người ta mới đánh giá thế này:
Chính phủ hết tiền rồi!

Các doanh nghiệp nói như vậy, và thực chất là nguồn tiền quá eo hẹp. Huy động mãi mới chỉ được gói kích thích 30.000 tỉ đồng để hỗ trợ cho thị trường bất động sản mà thôi.

Điều đó cho thấy việc tung ra trái phiếu là một kênh chẳng đặng đừng. Một kênh bất đắc dĩ mà chính phủ phải thực hiện, và cuối cùng cũng chỉ là một việc gần như vô nghĩa, tức là không giải quyết thực chất vấn đề nợ xấu.

Liên quan đến việc này, tôi cũng muốn nói thêm là công ty Quản lý Tài sản Quốc gia, viết tắt là VAMC được thành lập vào đầu năm 2013, có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là xử lý nợ xấu đang tồn đọng tại các doanh nghiệp và ngân hàng. Nhưng sau một hồi bàn thảo rất gay cấn, cuối cùng vốn điều lệ của VAMC chỉ có 500 tỉ mà thôi. Trong khi nhiệm vụ của VAMC là phải giải quyết ít nhất 100.000 tỉ đồng nợ xấu, theo con số báo cáo!

Với vốn điều lệ chỉ có 500 tỉ mà phải giải quyết gấp hai chục lần số nợ xấu thì làm sao có thể được? Thế là cuối cùng người ta cũng đành ngã sang một phương án như chính phủ đang thực hiện hiện nay. Có nghĩa lại tiếp tục phát hành trái phiếu. VAMC sẽ có một loại trái phiếu đặc biệt, và dùng loại trái phiếu đó để trả lại cho các ngân hàng – những ngân hàng đang ôm nợ xấu. Và các ngân hàng đó phải chuyển lại một số tài sản thế chấp và nợ xấu cho VAMC.

Cho nên trong mấy tháng vừa rồi, có những báo cáo đánh giá là tổ chức này (VAMC) đã mua được 30 đến 35.000 tỉ đồng nợ xấu. Nhưng điều đó có ý nghĩa như thế nào? Hay chỉ thuần túy là một việc diễn ra trên giấy và chuyển từ tài khoản này sang tài khoản kia. Còn thực chất nợ xấu vẫn là một hằng số, nếu không muốn nói là tăng lên theo thời gian và không hề thay đổi.

Thậm chí theo một báo cáo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước – buộc phải báo cáo trước Quốc hội kỳ họp thứ 6 khóa 13, thì Ngân hàng Nhà nước đã phải làm một động tác, một văn bản được coi là “đảo nợ” và chuyển 300.000 tỉ đồng từ nợ xấu lên nhóm nợ đỡ xấu hơn. Như vậy trái phiếu không giải quyết được gì cả.

RFI: Mới đây ông Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã đánh giá chuyện anh vừa nói là xử lý nợ xấu bằng cách “ngậm sâm”. Tức là tổ chức VAMC chỉ “cấp cứu” thôi, chứ không phải là xử lý nợ xấu triệt để. Muốn triệt để phải chờ sự phục hồi của nền kinh tế, mà theo ông [ta] là khoảng hai, ba năm tới. Theo anh vấn đề này có thể giải quyết thế nào?

À, đây là một ẩn số cực kỳ lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Nợ xấu hiện nay đang là vấn đề cốt tử để quyết định vận mệnh của nền kinh tế Việt Nam, và có thể cả vận mệnh của nền chính trị Việt Nam trong tương lai không quá xa!

Ông Trương Văn Phước trước đây từng là Tổng giám đốc Eximbank. Nhận định của ông theo tôi độ khách quan chỉ khoảng một nửa thôi, vì ông vẫn là một quan chức.

Muốn đánh giá một cách thực chất vấn đề nợ xấu của Việt Nam và thời gian để giải quyết nợ xấu, có lẽ phải dựa vào những ý kiến độc lập hơn nhiều. Nhưng dù sao tôi cho là ý kiến của ông Trương Văn Phước từ trước tới nay vẫn là một trong những ý kiến tương đối sâu sắc và có thể tham khảo được.

Vấn đề ông đưa ra là từ hai tới ba năm có thể giải quyết được nợ xấu, theo tôi là quá lạc quan. Đó là theo lộ trình của Nhà nước và những điều mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã tuyên bố trước Quốc hội, đến khoảng năm 2014-2015 có thể giải quyết được nợ xấu.

Nhưng theo một chuyên gia khác là ông Bùi Kiến Thành, một chuyên gia Việt kiều và có thể nói là một người khách quan nhất trong lãnh vực tài chánh ngân hàng, thì thời gian để giải quyết nợ xấu phải mất ít nhất 5 năm, tính từ năm 2012. Đánh giá của ông Bùi Kiến Thành được đưa ra vào năm 2012. Có nghĩa là sớm nhất phải đến 2017 mới có thể giải quyết được.

Như vậy đã có một sự chênh biệt khá đáng kể, ít nhất hai, ba năm giữa đánh giá của một chuyên gia phản biện độc lập với khối ngân hàng nhà nước về thời gian giải quyết nợ xấu. Còn giải quyết như thế nào, thực chất hiện nay VAMC không thể gọi là một phép mầu, một cây đũa thần.

Và đúng là như ông Trương Văn Phước đã dùng từ bóng bẩy nhưng ý nhị, là chỉ cho ngậm sâm. Đối với những cơ thể đã ốm o, dặt dẹo và thường là mang trọng bệnh thì mới cho ngậm sâm. Nhưng ngậm sâm chỉ có tác dụng trong một thời gian ngắn, sau đó nếu không giải quyết được gì nữa, lúc đó cơ thể sẽ lờn thuốc. Sẽ không có bất kỳ một loại sâm, một loại thuốc quý nào có thể làm cơ thể hồi phục. Lúc đó sẽ lụn bại, sụp xuống rất nhanh.

RFI: Thưa anh, báo cáo kinh tế vĩ mô 2013 mang tiêu đề “Thách thức còn ở phía trước” kêu gọi cổ phần hóa triệt để doanh nghiệp nhà nước, mở rộng tham gia của tư nhân, đưa ra lộ trình doanh nghiệp nhà nước hiện giờ 25-27% GDP xuống dưới 10% vào năm 2020. Anh thấy việc này có khả thi không?

Thực ra tôi không quan tâm lắm tới chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cho tới thời điểm này. Vì việc đó đã làm từ lâu và không có kết quả, chỉ theo tính chất phong trào mà thôi, và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước không mấy quan trọng. Còn những doanh nghiệp quan trọng thì Nhà nước vẫn nắm. Cho nên điều đó không tạo ra ý nghĩa nhiều lắm trong chiến dịch cổ phần hóa suốt mười mấy năm vừa rồi.

Chẳng hạn những lãnh vực như xăng dầu, điện lực độc quyền đến như thế nhưng Nhà nước vẫn không cổ phần hóa. Mà không cổ phần hóa thì giá chỉ có tăng mà không có giảm. Còn những lãnh vực cổ phần hóa như bưu chính thì như chúng ta đã thấy, trong thời gian khá dài giá đã giảm đáng kể, chẳng hạn giá cước sử dụng internet.

Nếu không bỏ độc quyền thì việc cổ phần hóa sẽ không có ý nghĩa lắm. Thành thử việc cổ phần hóa sẽ diễn ra như thế nào trong thời gian sắp tới, theo tôi không quan trọng bằng việc phải cải cách doanh nghiệp nhà nước một cách thực chất bằng việc xóa bỏ, hoặc ít nhất là cũng xóa dần thế độc quyền của một số doanh nghiệp, chẳng hạn như những doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, điện, nước thì mới có ý nghĩa. Chứ còn vẫn mãi độc quyền, không có một cải cách nào cả, thì sẽ khó thể tham gia vào những định chế đa phương thương mại quốc tế, và cũng không phát huy được nội lực của khối doanh nghiệp tư nhân trong nước.

RFI: Thưa anh, vừa rồi một nhà kinh tế kiêm blogger là Alan Phan cho biết ông không tin vào một chính sách nào của Nhà nước nữa, vì thật ra các tập đoàn lợi ích đã lũng đoạn rồi. Ông cho rằng với những gánh nặng doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu ngân hàng, ngân sách, thì Việt Nam dù có tham gia TPP đi nữa thì cũng không thể trở thành một con rồng trong thời gian tới…

Có hai vấn đề. Một là lòng tin, và hai là hiệu quả TPP.

Thứ nhất là lòng tin, thì đánh giá của ông Alan Phan theo tôi cơ bản là đúng. Tại vì hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đã than thở về chuyện mất lòng tin hoàn toàn vào thị trường, và chẳng còn mấy lòng tin vào Nhà nước. Theo thăm dò chính thức, có ít nhất 50-60% doanh nghiệp đã không còn lòng tin vào những chính sách của Nhà nước nữa rồi.

Nhưng theo tôi thì tỉ lệ này vẫn còn rất khiêm tốn. Vì khi nói chuyện với một số doanh nghiệp thì tôi nhận ra rằng nếu đưa ra những tiêu chí rõ ràng để khảo sát tâm lý, thăm dò ý kiến của họ và phân tích cho rõ ràng, thì có thể nói họ hầu như không có niềm tin. Tôi cho rằng ít nhất 80-85% doanh nghiệp và người dân không còn tin vào những chính sách kinh tế của Nhà nước nữa.

Nhất là sau ba năm suy thoái và để cho các nhóm lợi ích, đặc biệt là nhóm lợi ích ngân hàng, bất động sản, chứng khoán và vàng bạc lũng đoạn hoàn toàn thị trường. Cho nên bây giờ mới để xảy ra một trận lũ, hậu quả, dư chấn của một cuộc khủng hoảng gần như là ngổn ngang, phơi bày tất cả những gì trần trụi ra và đang phải giải quyết mà chúng ta vừa đề cập tới. Hậu quả lớn nhất của nó là vấn đề nợ xấu.

Vấn đề thứ hai là TPP. Tôi còn nhớ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có đề cập về lòng tin chiến lược. Lòng tin chiến lược là gì ? Điều đó đã được sách vở nói đến, kể cả một cuốn sách mô tả về hội nghị Shangri-la và những lời phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rất là chi tiết. Nhưng ở đây lại liên quan đến lòng tin đối với Chính phủ, với chính sách của Nhà nước.

Khi mà lòng tin của các doanh nghiệp và người dân không còn bao nhiêu, thì liệu có nổi một lòng tin chiến lược bền vững hay không? Hay đó chỉ là một câu sáo rỗng và rất xa vời? Nói chung là một ảo ảnh hoàn toàn không thể hiện thực hóa.

Mà không hiện thực hóa thì chúng ta cần phải nhìn lại điều đang muốn nhấn sâu vào: TPP. Việt Nam tham gia vào TPP để làm gì ? Để có thể đạt được lợi thế nhiều nhất chăng ? Hay là chúng ta phải nhìn lại cả một quá trình nền kinh tế Việt Nam tham gia vào định chế WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) suốt bảy năm, nhưng đã gần như không có hiệu quả, ngoài một số chỉ tiêu xuất khẩu.

Mà xuất khẩu tăng về lượng nhưng lại không tăng giá, và thực chất vẫn tạo ra một sự phân hóa rất lớn về mặt thu nhập giữa các tầng lớp người dân Việt Nam. Đặc biệt là người nông dân Việt Nam cho đến nay đang phải lãnh hậu quả, dù sản lượng lúa đạt nhưng giá lúa vẫn thấp.

Tôi cho là trong thời gian sắp tới có nhiều khả năng Việt Nam sẽ được chấp nhận tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương, xuất phát từ tín hiệu Nhà nước Việt Nam được chấp nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Tuy nhiên, tham gia vào TPP nhưng vẫn còn vướng khá nhiều rào cản kỹ thuật do quốc tế quyết định. Đó là những rào cản kỹ thuật về xuất xứ hàng hóa của hàng xuất khẩu ra nước ngoài – phải mang tính chất nội khối chứ không phải ngoại khối TPP. Thứ hai là những rào cản kỹ thuật về nhãn mác, về sở hữu trí tuệ, kể cả vấn đề nghiệp đoàn lao động mà người Mỹ và phương Tây đang đặt ra cho Việt Nam như một điều kiện để tham gia TPP.

Nghiệp đoàn lao động lại liên quan mật thiết với vấn đề nhân quyền như đã được quy định trong điều 69 của Hiến pháp Việt Nam, nhưng chưa bao giờ được luật hóa một cách cụ thể.

Do vậy theo tôi đánh giá chung, trong vòng từ ba đến bốn năm tới dù có được tham gia TPP, nền kinh tế Việt Nam vẫn không nhận lãnh được những kết quả tương xứng như mong muốn, mà tiếp tục suy thoái, tiếp tục phân hóa dày đặc giữa các giai tầng ở Việt Nam.

RFI: Tóm lại là tình hình có vẻ u ám, quốc doanh không hiệu quả thậm chí làm ra thêm nợ nần, thị trường chứng khoán gần như bế tắc, bất động sản đóng băng. Doanh nghiệp tư nhân chết rất nhiều, những doanh nghiệp còn sống thì ngân hàng có cho vay cũng ít dám vay. Trở lại vấn đề nợ công, liệu có một lối thoát nào khả dĩ, theo anh?

Lối thoát khả dĩ nhất hiện nay có lẽ là phải chống tham nhũng một cách triệt để, thu hồi tài sản do tham nhũng để trả nợ nước ngoài. Không còn cách nào khác! Tại vì không còn nguồn tiền nào khác để trả nợ cho nước ngoài, trong bối cảnh ngân sách cạn kiệt như thế này, các thị trường đầu cơ gần như đóng băng, và trong tương lai gần không có gì triển vọng hơn.


Chỉ còn cách lôi những tập đoàn tham nhũng, những cá nhân tham nhũng ra mà xử. Tại vì họ đã ăn đủ, ăn dày, ăn sâu, ăn đậm quá nhiều năm rồi, đã làm cho người dân quá khốn khổ rồi ! Nay cần phải làm những vụ lớn như Bạc Hy Lai ở Trung Quốc, lấy tài sản tham nhũng bù đắp gánh nặng nợ nần của quốc gia, trả nợ cho nước ngoài. Còn việc phát hành trái phiếu quốc tế, tôi không tin là hiện thực hóa thành công.

RFI: RFI Việt ngữ xin rất cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng ở Việt Nam, đã vui lòng nhận lời tham gia tạp chí kinh tế hôm nay của chúng tôi.

25 tháng 11, 2013

834. Hoàng Kim (Đồng Tháp): Đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu?!

Từ nhiều năm nay, Chính phủ Thái Lan luôn đề nghị Chính phủ Việt Nam thành lập liên minh lúa gạo giống như kiểu OPEC.

“Theo Oryza, Thứ trưởng Bộ Thương mại Thái Lan vừa kêu gọi 4 quốc gia Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) tham gia với Thái Lan cùng hình thành một liên minh lúa gạo để nâng cao giá gạo và các vấn đề về dự trữ.
Theo vị Thứ trưởng này phát biểu tại một cuộc họp có sự tham dự của đại diện 4 quốc gia xuất khẩu gạo khác, Hiệp hội Lúa gạo ASEAN cũng sẽ giúp giảm sự cạnh tranh nội bộ. Bởi vì 5 quốc gia ASEAN xuất khẩu khoảng 20 triệu tấn gạo mỗi năm, nhưng giá gạo không ổn định và kiểm soát tồn kho chưa được tổ chức thường xuyên, gây ra vấn đề cho các nước này”. Đài Tiếng Nói Việt Nam Online đăng tải. (*)

Vậy mà, cũng trong bài viết trên lại cho biết: “Tuy nhiên, các chuyên gia thực phẩm nói rằng, sự hình thành một liên minh gạo sẽ không chỉ gây nguy hiểm cho an ninh lương thực toàn cầu mà còn trái quy định của WTO”.

“Các chuyên gia thực phẩm”?! Đã là chuyên gia chắc là có đi học, nhưng sao phát biểu giống như bị thiểu năng trí tuệ.

Trời hỡi Trời! Ngó xuống mà coi.

Nhiều năm nay, gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn bán với giá thấp nhất thế giới, khiến cho nông dân Việt Nam đang bị bần cùng hóa, mùa hè thu năm 2013 này, nông dân Việt Nam bán lúa không có đồng lời chết lên chết xuống, vậy mà khi Thái Lan đề nghị thành lập liên minh để nâng cao giá lúa gạo, thì cái bọn ba trợn chuyên gia này lại sợ nguy hiểm cho an ninh lương thực toàn cầu?!

Lúa gạo là mồ hôi, nước mắt của nông dân. Sao lại đem mồ hôi, nước mắt của nông dân Việt Nam đi đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu?

Khối OPEC nâng cao giá dầu sao không trái quy định WTO, Thái Lan mấy năm nay nâng giá bán gạo 5% tấm lên trên 500 đô la Mỹ/ tấn sao không vi phạm WTO, Việt Nam nâng giá bán gạo thì tại sao lại vi phạm quy định của WTO?

Hay mấy tay chuyên gia ba trợn này muốn nói rằng, khi vào WTO Chính phủ Việt Nam đã cam kết không tăng giá lúa gạo?

Chính vì cái lũ chuyên gia đầu tôm này làm thầy dùi, mà nông dân đang tàn mạt ngóc đầu lên không nổi.
H. K.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

16 tháng 11, 2013

833. Hoàng Kim (Đồng Tháp): Một thực trạng khốn nạn - VFA đang là cường hào mới bóc lột nông dân đến tận xương tủy

Thực trạng đó cụ thể là: Nông dân làm cực như trâu nhưng ngày càng bị bần cùng; doanh nghiệp trong Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) ngồi mát ăn lương cả tỷ một năm rồi đem lúa gạo của nông dân bán một cách đần độn gần bằng giá thành sản xuất, mà, các doanh nghiệp này hầu hết là của Nhà nước.

Thực ra thực trạng này tôi đã nói nhiều lần, nhưng những người có trách nhiệm cứ giả đò như chẳng biết, nên nay tôi phải nói lại cho rõ ràng hơn.

Nông dân và VFA

Giáo Sư Võ Tòng Xuân nói rất rõ quan hệ giữa nông dân và VFA: Nông dân đang làm tôi mọi cho doanh nghiệp, đăng trên báo Người Lao Động Online.

Thái độ ông chủ của VFA biểu hiện rõ ràng nhất qua câu nói của ông Trương Thanh Phong, Chủ tịch VFA kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực Miền Nam: Đừng nói lời lãi lúc này. Hãy trả lời câu hỏi là muốn bán hay để lúa lại cho vịt ăn.

Lãnh lương gần 1 tỷ một năm, lại đem bán gạo của nông dân với giá thấp nhất thế giới, rồi về ép giá mua lúa của nông dân xuống bằng giá thành, lại ngang nhiên tuyên bố không bán thì để cho vịt ăn thì chỉ có những ông chủ độc quyền mới ăn ngang nói ngược như vậy.

Vì thế, quan hệ của nông dân và VFA là quan hệ của kẻ bị độc quyền và nhóm độc quyền. Đối với nông dân, VFA đang là cường hào mới bóc lột nông dân đến tận xương tủy, là cái ách đang quàng lên cổ nông dân, là khối u ác tính đang ăn hết thu nhập của nông dân.

Độc quyền lúa gạo của VFA đang phá tan hoang việc sản xuất lúa gạo, vì VFA chỉ có hưởng lời từ lúa gạo mà không hề đầu tư nâng cao giá trị hạt gạo, không tạo thương hiệu cho hạt gạo.

Làm như không thấy sự độc quyền này, rồi đưa ra các chính sách phát triển, hay tái cấu trúc nông nghiệp thì các chính sách đó sẽ là những chính sách vớ vẩn, bất khả thi.

Không chỉ là nhóm lợi ích, VFA là nhóm độc quyền đấy, thưa Ông Bộ Trưởng Cao Đức Phát

Phát biểu trước Quốc hội, Ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho biết chưa thấy có nhóm lợi ích trong nông nghiệp nói chung và trong việc sản xuất lúa nói riêng.

Tôi xin được phép thưa với ông Bộ trưởng rằng: Trong việc mua bán lúa gạo hiện nay, VFA không những là nhóm lợi ích, mà VFA đang là nhóm độc quyền lúa gạo của nông dân.

Về sự độc quyền lúa gạo của VFA mà 2 Tổng công ty Lương thực Miền Nam và Miền Bắc là nòng cốt, tôi đã viết bài: “Độc Quyền lúa gạo: Cái ách đang quàng lên cổ nông dân” và bài: “Lúa gạo Việt Nam cần những nhà lý luận trung thực” đăng trên Bauxite Việt Nam.

Chỉ cần dùng Luật Cạnh tranh chiếu vào hoạt động của Tổng công ty Lương thực Miền Nam và VFA, chúng ta sẽ thấy rõ sự độc quyền lúa gạo này.

VFA độc quyền lúa gạo, sự độc quyền này giống như khối u ác tính đang ăn hết thu nhập của nông dân, nó đang bần cùng hóa nông dân, nó giết chết việc sản xuất lúa, nó biến gạo Việt Nam thành loại gạo kém chất lượng trên thị trường thế giới, nó khiến cho gạo Việt Nam có giá thấp nhất trên thị trường thế giới.

Không xóa bỏ khối u ác tính độc quyền này, không cắt khối u ác tính độc quyền này, thì mọi nỗ lực nhằm nâng cao đời sống của nông dân điều sẽ vô dụng, mọi cố gắng nhằm tái cơ cấu việc sản xuất lúa cũng sẽ vô dụng.

Do độc quyền: Nông dân nai lưng làm lúa, VFA ngồi mát ăn vàng

Nông dân cực nhọc 3 tháng trời làm ra hạt lúa, đến khi thu hoạch đầu đội, vai mang đến dâng cho VFA, VFA cầm đũa ngồi đợi sẵn ở các kho trong các thành phố lớn.

Giống lúa nào có giá thì gắp cho vào mồm, giống lúa nào không có giá thì hạ giá mua rẻ, hoặc không mua, còn chê nông dân ngu dốt chạy theo giống này giống nọ.

Nông dân cực nhọc làm ra hạt lúa, VFA bán lúa gạo lấy lời ăn, nhưng do độc quyền nên chỉ biết lấy lời bằng cách nhảy tót lên khâu phân phối cuối cùng để ăn chênh lệch giá, chứ chẳng hề giúp một chút nào cho nông dân.

Nông dân cực nhọc làm ra hạt lúa, VFA bán lúa gạo lấy lời ăn, nhưng lại lấy hết lời của nông dân, bằng cách mua lúa cho nông dân hòa vốn hoặc lời xoay quanh mức 30% chết đói.

Mua lúa của nông dân thì VFA bỏ mặc cho thương lái lúa, xay lúa thành gạo thì VFA bỏ mặc cho thương lái gạo, VFA chỉ làm một công việc đơn giản là đóng bao chở ra cảng để xuất khẩu.

Do độc quyền nên năm nào VFA cũng lời khủng, Tổng công ty lương thực Miền Nam lời trên 1000 tỷ một năm, lương lãnh đạo VFA gần 1 tỷ một năm, còn nông dân thì vụ đông xuân bán lúa theo mức lời 30% chết đói, vụ hè thu bán lúa hòa vốn, hiện đang bị phá sản.
Bảng lợi nhuận của Tổng công Ty Lương thực Miền Nam theo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn (1)


Thời báo Kinh Tế Sài Gòn giải thích việc năm 2012 Tổng công ty Lương thực Miền Nam lời chỉ có khoảng 300 tỷ là do: “Theo quyết định số 1909/QĐ-TTg về việc tái cơ cấu từ năm 2012-2015 Vinafood2 sẽ cổ phần hóa một số công ty con, vì vậy, có thông tin cho rằng, Vinafood2 tìm cách giảm lợi nhuận xuống để gián tiếp ảnh hưởng đến việc cổ phần hóa các công ty con nhằm định giá thấp hơn thực tế để một số cán bộ có thể mua được nhiều cổ phần hơn”.

Nếu không có việc cổ phần này chắc lợi nhuận năm 2012 cũng sẽ cả ngàn tỷ.

Lợi nhuận của nông dân năm 2013 chỉ 3.525.000 đồng một năm

Vụ đông xuân 2012- 2013 giá lúa OM 4900 bằng với lúa ngang IR 50404 là 4.500 đồng/kg, thấp hơn vụ đông xuân năm 2011-2012 đến 700 đồng/kg.

Để cho số liệu về giá thành có tính chính thống, tôi không lấy giá thành của cá nhân tôi, nhưng xin lấy số liệu giá thành của Bộ Tài chính. Theo tính toán của Bộ Tài chính thì giá thành vụ đông xuân 2012-2013 là 3.800 đồng/kg, như vậy, nông dân chúng tôi chỉ thu được lợi nhuận có 700 đồng/kg.

Theo báo đài thì năng suất bình quân vụ đông xuân 2012-2013 ở ĐBSCL là 68 tạ/héc ta (cá nhân tôi làm được 70 tạ, con số chênh lệch không đáng kể) vậy, vụ đông xuân, mỗi héc ta lúa nông dân lời chỉ 4.760.000 đồng.

Vụ hè thu năm 2013 tôi làm giống lúa OM 6976 bán được với giá 4.250 đồng/kg, do năng suất lúa vụ hè thu thấp nên giá thành lên rất cao, theo Bộ Tài chính, giá thành bình quân ở tỉnh Đồng Tháp là 4.619 đồng/kg, mức giá thành bình quân của cả Đồng bằng Sông Cửu Long là 4.142 đồng, như vậy, vụ hè thu này tôi làm lúa từ hòa vốn đến lỗ chứ chẳng lời được đồng nào cả.

Vậy cả năm 2013 này nông dân chúng tôi chỉ lời có 4.700.000 đồng/ha.

Theo qui định của Nhà nước mỗi hộ 4 người nông dân ở ĐBSCL được cấp 3 ha ruộng như vậy, mỗi hộ thu nhập năm 2013 chỉ có 14.100.000 đồng, mỗi người thu nhập năm 2013 là 3.525.000 đồng. Vậy thu nhập bình quân mỗi nông dân một tháng chỉ được: 293.750 đồng, thu nhập những năm trước cũng tương tự.

Lương lãnh đạo Tổng công ty Lương thực Miền Nam gần 1 tỷ đồng một năm, Tổng công ty Lương thực Miền Nam lời cả ngàn tỷ mỗi năm, trong khi đó thu nhập của 1 nông dân 3.525.000 đồng một năm, đây là con số phản ảnh rỏ nét sự độc quyền của VFA đối với nông dân trong việc mua bán lúa gạo hiện nay.

Độc quyền nên VFA bán gạo của nông dân với giá thấp nhất thế giới

Từ năm 2005 đến nay, VFA luôn bán gạo giá thấp nhất so với 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, đặc biệt năm 2013 này không những thấp mà còn thấp rất xa: Thấp hơn gạo Ấn Độ 70 đô la Mỹ/ tấn, thấp hơn gạo Thái Lan 170 đô la Mỹ/tấn.

Tại sao VFA bán gạo xuất khẩu giá thấp nhất thế giới? Có 2 lý do:

1- Lợi nhuận của VFA không phụ thuộc vào giá bán gạo xuất khẩu.
VFA hưởng lợi đầu tấn, tức là cứ mua bán 1 tấn gạo thì lời một số tiền, bất chấp giá bán gạo xuất khẩu cao hay thấp.

Chúng ta hãy xem xét: Lợi nhuận của các doanh nghiệp trong VFA = giá bán gạo xuất khẩu – (giá thu mua gạo trong nước + phí xuất khẩu). Lợi nhuận này không phụ thụôc vào giá gạo xuất khẩu mà chỉ phụ thuộc vào sự chênh lệch giá. Do đó, nếu ký bán gạo xuất khẩu giá thấp thì các doanh nghiệp sẽ ép giá mua lúa của nông dân và họ vẫn có lời.

Bán gạo xuất khẩu giá rẻ nhưng vẫn lời ngàn tỷ, nên VFA không cần phải nâng cao giá trị hạt gạo, không cần tạo thương hiệu.

2- Bán gạo xuất khẩu rẻ để được “gửi giá”

“TS Lê Đăng Doanh cho rằng, việc lãnh đạo Vinafood 2 đồng thời là lãnh đạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), được Chính phủ giao ký hợp đồng, bảo đảm việc xuất khẩu gạo theo chỉ đạo của Chính phủ nhưng lại bán cho một Công ty sân sau (Saigonfood) với giá thấp hơn giá sàn do chính VFA đưa ra là bất minh.

Điều đó, chứng tỏ ông Chủ tịch VFA tự phá quy định của mình. Đây là thủ đoạn trục lợi khá phổ biến, thường được gọi là gửi giá. Tức là, tôi bán cho anh với giá thấp, để rồi anh bán với giá thị trường. Mỗi tấn tôi bán cho anh giá thấp thì anh phải trả lại cho tôi một số tiền tùy theo mức chênh lệch giá trên từng tấn gạo”. Báo Tiền Phong Online cho biết (2)

Ông Nguyễn Thái Nguyên trên Bauxite Việt Nam còn cho biết vấn đề “gởi giá” đã được thưa đến Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Thủ Tướng Võ Văn Kiệt nói với ông Nguyễn Thái Nguyên: “Người ta báo cáo: “có một số người của các công ty nhà nước, khi ra nước ngoài thương thảo hợp đồng với người ta đã móc ngoặc, hạ giá xuống để chia nhau. Thực tế, giá gạo không phải vậy, nhưng họ ký với nhau chỉ thấp như vậy thôi. Tôi không biết hư thực ra sao, nhưng đây là chuyện lớn, tôi muốn làm rõ”. (3)

Việc VFA bán phá giá gạo với giá thấp nhất thế giới khiến cho nông dân chúng tôi nghi ngờ có việc gởi giá trong bán gạo xuất khẩu, có hay không có hiện tượng gởi giá cần phải được các ngành chức năng làm cho minh bạch. Bán gạo giá rẻ được khách hàng “gửi giá” bằng cách đưa tiền tư túi, thì tại sao VFA không bán gạo rẻ?

Bán gạo giá rẻ nhất thế giới, rồi về ép giá lúa của nông dân xuống gần bằng giá thành, VFA vẫn lời to

Bán gạo giá đã rẻ nhất thế giới, nhưng không mua lúa cho nông dân từ giá bán gạo này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam bày mưu mua lúa tạm trữ, để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân:

Năm 2008 Hiệp hội Lương thực Việt Nam bán gạo xuất khẩu giá qui ra giá lúa 6.432 đồng/kg, mua lúa tạm trữ của nông dân với giá 4.000 đồng/kg. Hiệp hội lời 2.432 đồng/kg, nông dân bán lúa hòa vốn.

Năm 2009, bán gạo xuất khẩu qui lúa giá 6.362 đồng/kg, mua lúa tạm trữ của nông dân với giá 4.000 đồng/kg. Hiệp hội lời 2.362 đồng/kg, nông dân hòa vốn.

Năm 2010, Hiệp hội Lương thực Việt Nam mua lúa tạm trữ cả hai vụ đông xuân và hè thu với giá vẫn 4.000 đồng/kg, nhưng bán gạo với giá qui lúa 5.365 đồng/kg, cả năm này, nông dân lời không đủ sống.

Năm 2013 này, mùa đông xuân VFA mua lúa tạm trữ của nông dân khoảng 4.500 đồng/kg lúa tươi loại xay ra gạo 5% tấm nông dân lời vài trăm đồng một kg, mùa hè thu mua giá 4.250 đồng/kg nông dân hòa vốn.

Nông dân không bán lúa cho VFA thì chỉ còn cách cho vịt ăn

VFA mua lúa giá rẻ quá sao nông dân không bán cho người khác? Như trên tôi đã nói VFA độc quyền mua bán lúa gạo của nông dân, nông dân không bán cho VFA thì chẳng bán cho ai được hết.

Chúng ta hãy nghe phát biểu của ông Trương Thanh Phong Chủ tịch VFA, kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực Miền Nam: Đừng nói lời lãi lúc này. Hãy trả lời câu hỏi là muốn bán hay để lúa lại cho vịt ăn.

Nghe phát biểu này chúng ta có thể hiểu được sự lệ thuộc của nông dân vào VFA, VFA muốn mua lúa của nông dân với giá nào cũng được, nông dân không có quyền mặc cả, có lỗ vốn nông dân cũng phải bán, vì không bán cho VFA thì chẳng bán được cho ai cả, nông dân để lúa lại mà sau đó VFA không thèm mua thì lúa đó chỉ có nước cho vịt nó ăn.

Tóm lại: Quan hệ của nông dân và VFA là quan hệ giữa người bị độc quyền và nhóm độc quyền, nên nông dân đang làm tôi mọi cho VFA - nông dân nai lưng ra làm còn VFA ngồi không mà hưởng – Không những ngồi không mà hưởng, cách buôn bán gạo chụp giựt kiểu buôn chuyến không thương hiệu của VFA, đã biến gạo Việt Nam có chất lượng cao thành loại gạo kém chất lượng trên thị trường thế giới.

Không xóa bỏ độc quyền lúa gạo của VFA, mọi chính sách nâng cao thu nhập cho nông dân và phát triển sản xuất lúa sẽ trở thành vô dụng.

Không xóa bỏ độc quyền lúa gạo của VFA, mọi câu nói quan tâm đến thu nhập của nông dân chỉ là những câu nói mị nông dân.

H.K.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
(1) bài: “Lợi nhuận của Vinafood 2 thấp nhất từ năm 2008”http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/chuyenlaman/89878/
(2) Bài: “Phải cắt sân sau, bỏ độc quyền”http://www.tienphong.vn/xa-hoi/173841/Phai-cat-san-sau-bo-dac-quyen.html
(3) Bài: “Góp lời bàn ngắn về nông thôn nông nghiệp”.

Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:25

15 tháng 11, 2013

832. HTC One X: xử lý khi bị thoát pin cực nhanh trên Android 4.2.2 sense 5

Sửa lần cuối: 2013.12.06

HTC One X - cơ bản cho newbie

Mình chia sẻ chút kinh nghiệm: bệnh là từ khi lên Android 4.2.2 Sense 5, pin tự nhiên bị thoát cực nhanh, kể cả lúc nghỉ (screen off), sạc đầy pin đi ngủ sáng dậy chỉ còn ~60% - máy nóng?. Ban ngày dùng cũng thế ...! Mình còn nghi là pin bị chai cơ, nhưng vì máy nóng nên dự là có cái gì đấy cứ chạy ngầm ăn pin. Vật vã mấy tuần, thử thay đổi kernel rồi cài lại ROM, lang thang trên XDA,... cuối cùng cũng xử lý tương đối ổn.

Kết quả đây, không tồi? :-)) (ROM: ViperX4.0.5; Kernel: ViperX)


Thuốc thang loạn xì ngầu, giờ không xác định chính xác thuốc nào là thuốc đặc trị :-))) ==> mình cứ chia sẻ hết các thiết lập của mình chỉ để các bạn THAM KHẢO -- hy vọng hữu ích và tiếp tục test cùng mình -- nhớ chia sẻ nhá ^_^

Tóm lại chính là công việc xử lý WAKELOCK: Wakelock là 1 cơ chế của kernel dùng để quản lý điện năng trên Android. Khi 1 thread giữ 1 wakelock, kernel sẽ cố kiềm chế truy nhập vào trạng thái low-power. Đơn giản, wakelock là cái cố giữ cho phone của bạn ở trạng thái nghỉ (idle), hay nói cách khác, nếu bạn dùng 1 app truy tìm các wakelock như BetterBatteryStats v1.14.0.0 RC1.apk, bạn có thể thấy các wakelock được liệt kê ra (cùng tần suất, thời gian cho mỗi chủ đề - thread), nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào các wakelock không mong muốn xuất hiện càng ít càng tốt - phone sẽ không bị tiêu hao năng lượng vì các wakelock không cần thiết. Nói thêm, Android 4.2 Sense 5, Google đã tích hợp nhiều tính năng vào các ứng dụng hệ thống (như: Hangout, Google Play Services, Google Search/Google Now,...), hầu hết các app này định kỳ kết nối mạng để lấy thông tin cập nhật, liên quan đến mạng, mà bạn biết chất lượng mạng VN rồi đấy :-(, một khi nó kết nối không thành công hay chậm, Android sẽ tự động gia tăng cường độ để cố kết nối... và cứ như vậy liên tục tiếp diễn thậm chí ngay cả khi bạn đã tắt máy -- theo mình, đấy là lý do do chính làm thoát pin như thoát nước.

Nào, giờ thiết lập HOX của bạn thôi,

1- Settings

> Wi-Fi > Menu > Advanced > Keep Wi-Fi on during sleep > check: Only when plugged in


> Account & sync > Weather > Update schedule > Every 6 hours


> Backup & reset > uncheck: Automatic backup

> Power > Power saver > Power saver OFF > check: CPU power, Data connection, Auto Sync và GPS > back > Power saver ON

> Power > check: Sleep mode ON

> Power > uncheck: Fast boot

2- Disable 1 số app

Settings > App > ALL > nhấn vào từng app khó chịu rồi disable chúng, thí dụ:

- Calender widget, Google Calender Sync, Google Play Movies, HTC Mobile Sync, LocalFeedProvider, Location Picker, Locations, News & Weather, SocialNetwork Resource, Tasks widget.

Disable chúng 1 thời gian mà không vấn đề gì, và nếu bạn chẳng bao giờ dùng app nào đó thì lần sau, khi cài rom mới, xóa quách chúng ngay từ đầu cho xong!

3- Disable 1 số dịch vụ từ Google Services

Bạn tải về System.Tuner.v2.5.9.apk và cài nó, sau đó làm chính xác như sau:

> System Tuner Pro > Startups > Google Services Framework > uncheck:

gtalkservice.diagnostits.GTalkDiagnostics
gtalkservice.ConnectionAuthErrorDialog
gtalkservice.ConnectionAuthErrorDialog
talk.TalkProvider
checkin.CheckinService$Receiver
checkin.CheckinServices$TriggerReceiver
checkin.EventLogServices$Receiver
gtalkservice.diagnostics.GTalkDiagnosticsBroadcastReceiver
gtalkservice.ServiceAutoStarter
gtalkservices.DataMessageReceiver
gtalkservice.SendXmppReceiver
gtalkservices.PackageInstalledReceiver
gtalkservice.XmppEndpointReceiver
checkin.EventLogService
gtalkservice.service.GTalkService
gtalkservice.PushMessagingRegistar


4- Đưa 1 số app về chế độ ngủ đông (hibernate) bằng Greenify

Greenify là 1 ứng dụng tuyệt vời, nó giúp bạn đưa 1 số ứng dụng khó chịu (wakelock thời gian dài, tần suất lớn) về chế độ hibernate (được greenify) -- nhờ đó, các ứng dụng đó ngủ yên không tự động sinh wakelock gì cả cho đến khi có lệnh gọi nó dậy làm việc (do bạn hoặc ứng dụng của bạn gọi), sau đó chúng lại ngủ tiếp -- tiện nhỉ :-)))

Bạn vào Play Store tải bản free Greenify về dùng, bản free thì chỉ greenify được các app thường, bản Greenify (Donation) thì có thể greenify được cả các app hệ thống. Bạn có thể dùng Lucky Patcher và/hoặc key Greenify Pro 2.1 để patch bản free thành bản donation, nhưng trước đó bạn phải cài Xposed frarmwork vì bản donation cần nó để chạy (nhớ đọc hướng dẫn cách cài và kích hoạt module trên xposed). Cách dùng Greenify đơn giản, bạn tự mò nhá :-)

Bạn dùng Greenify để greenify 1 số app, bất cứ app nào bạn nghi ngờ - không sao cả, bạn có thể de-greenify bất cứ lúc nào, thí dụ: Calender, Evernote, Facebook, Google Play Movies, Google Play Services, Hangouts, Google Search, Maps, Messenger.


5- Dùng Titanium Backup freeze 1 số dịch vụ

com.android.backupconfirm....
com.android.sharedstoragebackup...
Google Backup Transport...
Google Calendar Sync...
HTC Backup...
HTC Mobile Sync...
HTC News Plugin...
HTC Sync 963
LocalFeedProvider...
Location Picker...
Locations...News & Weather...
Social Manager...
SocialFeedProvider...
Tasks...
Tasks Widget...


===
Ngoài ra, tất nhiên, bạn có thể sử dụng các phương pháp tiết kiệm pin khác như: custom ROM, custom kernel, UV,... hầu hết các cách này liên quan đến việc làm giảm hiệu năng vốn có của máy -- cái này do cách dùng và ý thích từng người @@ mình không đề cập ở đây.


Thanks