“Anh Ba Sàm tên thật là Nguyễn Hữu Vinh,
thường trú tại Hà Nội, sinh năm 1956, con trai của cụ Nguyễn Hữu Khiếu, cựu Bộ
Trưởng Bộ Lao động nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cựu Đại sứ Việt Nam tại Liên
bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết”.
1- Anh Ba Sàm - “Tự diễn
biến”
Bao nhiêu năm sống giữa chốn “cung đình”, “nằm trong chăn”, hưởng
sung sướng nhất những khi người dân khốn khổ nhất, ngộ ra bao điều phi lý, bao
nghịch cảnh.
Gần 30 năm, từ thơ ấu cho tới khi bước vào đời, thành “người của
đảng”, BS được sống cùng gia đình trong
một ngôi biệt thự của nhà nước giữa phố Phan Đình Phùng, Hà Nội, nơi mấy năm
nay ông thủ tướng đương nhiệm đang ở.
Khi người dân miền Bắc hầu như không biết đến hương vị bơ, sữa,
thì mỗi sáng hắn tản bộ vài bước qua số 2 Hoàng Diệu, kế bên dinh thự của TBT
Lê Duẩn, để mua những chai sữa tươi còn nóng hổi, những thỏi bơ, pa-tê, ổ bánh
mì thơm phức…
Hàng tuần, cứ tối thứ Tư và thứ Bảy, hắn cùng đám trẻ con ông
cháu cha lại được tụ tập xem phim ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân cùng người lớn, là
các ông trong BCT, BCHTW như Lê Đức Thọ,Trường Chinh, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng…
Kỷ niệm duy nhất với bác Hồ là một tối Trung thu khi hắn lên 5.
Trẻ con mấy cơ quan đảng tập trung trong hội trường số 10 Nguyễn Cảnh Chân. Cả
lũ được chụp ảnh chung với bác, hắn được đứng bên. Sắp chụp thì bị mẹ định lôi
xuống, xin phép chải lại mớ tóc bù xù. Bác gạt đi, bảo: “Không cần đâu! Cứ để
thế cho nó tự nhiên”. Vậy là ấn tượng chút ít về bác Hồ qua cái vụ đó. Bác mất,
bố hắn tập trung cả nhà lại thông báo. Có mỗi ông anh thứ hai khóc.
Những chuyện chính trị của người lớn, sách, tài liệu của giới
lãnh đạo ít ai được tiếp xúc, tuy còn nhỏ, nhưng tò mò, hắn cũng được nghe lóm,
đọc lén không ít. Ví như món “Tài liệu tham khảo đặc biệt” của TTXVN, mà lâu
nay đăng lại trên blog này, đã có từ khi hắn biết chữ. Vẫn thứ giấy đen thui, vẫn
màu mực, lối trình bày đó. Nội dung vẫn là đăng lại, dịch chọn lọc từ đài, báo
nước ngoài. Những năm 1960’, loại này có chữ “Mật-Không phổ biến”, chỉ cấp bộ
thứ trưởng trở lên được cung cấp, sau này thêm cấp vụ, cục. Rồi khoảng cuối
1990’ thì bán tự do. Dù thế nào thì những tài liệu này cũng đã giúp hắn “tự diễn
biến” kha khá trong bao nhiêu năm “theo đảng”.
Những thông tin ít nhiều về chế độ cộng sản kỳ quái của Mao cũng
đến dần. Các đàn anh đàn chị học trường thiếu sinh quân sơ tán ở Quế Lâm, Trung
Quốc về kể cho nghe những cảnh chém giết lẫn nhau giữa các phe phái. Ghê rợn!
Còn bên kia đường, nơi nay là trụ sở Viện Quản lý kinh tế TW và
các dinh thự công vụ lần lượt cho các vị TBT, BCT ở, là toàn bộ các cơ quan ngoại
giao của Trung Quốc. Tối tối lại vọng ra những bài sặc mùi sùng bái cá nhân
Mao, như Đông phương hồng, Ra khơi nhờ tay lái vững.
Hình như tất cả những thứ đó cứ tích tụ dần một thái độ căm ghét
chế độ Mao ngu muội, tàn ác, lờ mờ cảm giác về chính xã hội mà hắn đang sống. Một
hôm, thó trong tủ sách của bố cuốn Bàn về mâu thuẫn của Mao, dở ra, hắn nhổ vào
mặt Mao một bãi nước bọt, cho bõ ghét.
Các chú, các cậu… thì kể về nội tình chóp bu, Mao, Lâm, Lưu mưu
hãm hại nhau. Có lần họ còn cho xem một bức tranh to tổ bố “Mao Chủ tịch đến
Diên An”, được Trung Quốc gửi sang cho không hàng đống cùng “trước tác” của
Mao, còn huy hiệu Mao thì phát cả rổ. Thế nhưng người ta không ngờ đó là bức
tranh mang đầy ẩn ý, những hình đầu lâu xương chéo, người treo cổ rải rác khắp
nơi, nghe nói do cháu Lưu Thiếu Kỳ vẽ. Dưới nắm tay của Mao siết
chặt như chực đấm là một đám mây, soi kỹ thì đúng là hình hai ông Marx, Lenin.
Bọn sứ quán Trung Quốc đã phải vội vã tìm mọi cách thu hồi.
Hình như cũng nhiễm căn bệnh đa nghi và luôn lo sợ bị bôi xấu,
nên hồi đó, người lớn cũng thì thầm loan tin bức hình con chim Đrao trên vỏ thuốc
lá cùng tên cũng mang ẩn ý xấu. Cái mỏ nó hót, mà gương mặt (?) có vẻ ai oán,
như vậy là nó than vãn về chế độ miền Bắc ta rồi… Không rõ do cơ quan quản lý
tưởng tượng ra, hay là chính “bọn bất mãn” tự loan truyền nhận xét vậy để nói xấu
chế độ, chỉ thấy sau này không còn loại thuốc lá đó nữa.
“Chiến tranh phá hoại” - tức những năm Mỹ ném bom miền Bắc đã
đem BS rời chốn “lầu son gác tía” để tới với cuộc sống bần hàn của người nông
dân; điều tưởng như sự thiệt thòi, mà sau này càng ngày hắn càng thấy may mắn,
tự hào, khi không được như các anh chị và bọn trẻ trong khu, người học trường
thiếu sinh quân, đứa thì “trốn” sơ tán bằng cách tạm lánh ra học các trường ở
ngoại thành Hà Nội.
Chăn trâu cắt cỏ, giã gạo, xay lúa, nuôi gà vịt… cũng biết mùi cả.
Có những điều kỳ lạ mà có lẽ không sách báo nào viết ra, nhưng để
lại cho hắn những ấn tượng và dấu hỏi khó giải.
Khi đó, để có một chiếc radio nghe tin tức là cực hiếm, còn nghe
“đài địch” thì đi tù như chơi. Vậy mà cha con bác chủ nhà vẫn nghe được đài địch
hàng đêm. Họ ráp vài linh kiện điện tử, căng một đoạn dây đồng ngang qua mái
nhà, xin hắn mấy viên pin cũ bỏ đi, ngâm vào nước muối để “tái sinh”… Mớ hỗn độn
đó được gọi là “Đài ga-len”. Đêm đêm, đôi khi thức giấc, rất lạ khi nghe “Đây
là Đài tiếng nói Gươm thiêng ái quốc”, có khi là “Đài Sài Gòn”, mục “Nhịp cầu
quê hương”, lời nhắn gửi cha, mẹ ở miền Bắc của các “cán binh cộng sản” đã tìm
đến với “chánh nghĩa quốc gia”. Rõ là một thế giới khác!
1975. Về quê ngoại, Huế.
Quá nhiều điều làm BS kinh ngạc, từ đời sống “phồn vinh giả tạo” được cán bộ, bộ
đội, trong đó có cả hắn, cuống cuồng rinh ra Bắc, cho tới thái độ chính trị của
người dân. Câu cửa miệng chua xót: “miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ”. Hắn
còn thay mặt gia đình nhận một khoản tiền các cậu, dì bán mảnh ruộng cuối cùng
của ông ngoại chia cho.
Lạ là khác với những gì hắn vẫn được tuyên truyền, sao trong đó
người ta toàn gọi Ngô Đình Diệm là “ông” với thái độ kính nể? Rồi cao điểm là
trong một cuộc cãi vã với thằng hàng xóm để bênh vực chế độ XHCN tươi đẹp, hắn
đã bị bẽ mặt. Không thể tin được câu chuyện lần đầu tiên nghe, như tiếng sét
ngang tai, về vụ thảm sát Mậu Thân 1968. Hỏi bà dì, hóa ra có thật. Sau này, tất
cả những gì tương tự nghe được lúc đó càng rõ hơn.
1977. Những gì nghe tuyên truyền và được học trên giảng đường về
tôn giáo dường như ngược với thứ hắn đọc được khi thâm nhập thực tế. Bất ngờ tới
độ hắn đã phải ghi vào nhật ký mà phân vân không thể tự giải thích nổi: “Đọc hồ sơ học sinh chủng viện Vĩnh Bảo. Tài liệu sao dịch
của giám mục Tạo nói về tôn giáo, tuyên truyền phát triển Gia tô giáo. Mình thấy
yêu cầu phải giải thích – nói đúng hơn là tranh luận với những ý kiến trong đó
của hắn. Đại ý: khoa học không tách rời tôn giáo, khoa học phát triển được là
nhờ tôn giáo, ngược lại, tôn giáo cũng được giải thích bằng cơ sở khoa học… Bài
viết bác bỏ các ý kiến cho rằng tín ngưỡng là kẻ thù của khoa học bằng cách dẫn
chứng với 300 nhà khoa học danh tiếng trên thế giới thì chỉ có 5 nhà khoa học
là vô thần…” Sau này ngày càng ngộ ra tại sao những người được gọi là cộng sản
có nhu cầu cao độ phải hạn chế thông tin với dân chúng và với chính mình. Họ sợ…
mất người.
Tờ nhật ký
Khi ra làm việc, trong nhiều năm liền hắn được tiếp xúc hàng
ngày với các cựu sĩ quan, quan chức trong chế độ Sài Gòn bị giam giữ để gọi là
“học tập cải tạo” trong khắp các trại từ Nam chí Bắc, ăn dầm nằm dề những Vĩnh
Quang, Ba Sao, Trại 5 Thanh Hóa, Trại 2 Nghệ An, Bình Điền, Z30D… đủ cả. Nhiều
điều mà trong chiến tranh hắn nghe được qua đài báo, sách vở về họ hoàn toàn
trái ngược với những con người thật hắn thấy. Không thể kể hết, mà chỉ tóm lược
bằng hình ảnh trớ trêu: những cán bộ chiến sĩ cảnh sát nghèo khó, ít học, quá
thiếu hiểu biết lại đang “giáo dục, cải tạo” cho nhiều kẻ thù cũ không những được
học hành cẩn thận, mà còn có nền tảng văn hóa, nhân cách đáng nể. Bao nhiêu con
người với những bộ óc tài ba đã bị phung phí. Thế nhưng tất cả họ phải chịu
cùng cảnh “ông tù, cháu tội”. Tiếc là các “ông” không dám, không biết học hỏi từ
các “cháu”. Riêng “ông” BS thì không sợ, tranh thủ mọi nơi mọi lúc, tâm niệm học
lỏm được càng nhiều càng tốt.
Suốt 10 năm liền, trước và tiếp sau thời phát động “Đổi mới”, do
điều kiện công việc, hắn được tiếp xúc hàng ngày với nhiều thương gia, trí thức
người Việt ở nước ngoài trở về. Với một xã hội vẫn còn khép kín thì đó quả là cả
một “thế giới” khác, họ đã đem theo những thông tin, lối sống, cách tư duy khác
hẳn với một chế độ “bao cấp” cả về kinh tế lẫn tư tưởng mà hắn đang sống.
Có lẽ ít ai để ý và còn nhớ, những năm 80’ của thế kỷ trước, việc
dùng đầu máy video còn bị cấm. Một anh bạn khá giả của hắn cũng sắm được một
cái, hàng “nghĩa địa”, chỉ có vài cuốn phim ngoại quốc không dịch lời, xem đi
xem lại với nhau thấy sướng lắm rồi. Vậy mà bị tóm, tịch thu, phải “chạy” bằng
một chiếc xe máy thì mới qua được. Nhưng cơ quan BS không những được Việt kiều
cho đầu máy video, nhiều băng phim, mà còn “dám” tổ chức chiếu. Cuối tuần, phát
“vé nội bộ”, gia đình, bạn bè cán bộ lặng lẽ tới coi, mắt trước mắt sau như đám
cờ gian bạc bịp. Phim đôi khi nhờ người dịch lời, còn thường thì… đùa với nhau
là “xem phim câm điếc”, vài người nghe được lõm bõm, vừa xem vừa tranh nhau
đoán, càng rôm rả.
Sách báo, tài liệu Việt kiều đem về cho, từ thứ “phản động” liên
quan đời sống người Việt bên ngoài, đại đa số là “chống cộng”, cho tới những
nghiên cứu về Việt Nam, các nước… thì vô thiên ủng. Tất cả đều là những của hiếm
thời đó.
Hắn được “mở mắt” thêm nhiều nữa, đương nhiên, nói như các bác
tuyên giáo “kiên định lập trường”, hắn “tự diễn biến”. Rồi thêm một thứ “diễn
biến” khác là hắn đã liều bỏ không biết bao thời gian và tiền túi để lọ mọ học
tiếng Anh và vi tính từ lúc mọi người còn coi là thứ xa lạ.
Có lẽ vì vậy mà chỉ vài năm sau khi thành “người của đảng”, hắn
đã muốn đảng phải đổi… màu.
2- Chỉnh Đảng
Mấy tháng trước, trong cuộc chuyện trò, thằng bạn đang là lãnh đạo
một cơ quan pháp luật, cũng diện con ông cháu cha, bảo: “Chế độ này mà đổ thì
tao với mày nó thịt đầu tiên!” Hắn cười:
“Thì tao đang làm cái việc để cho nó không ‘đổ’, mà sẽ dần dần thay đổi, phát triển tốt đẹp hơn”.
Không nhớ được bao nhiêu năm, BS hay tranh cãi chuyện chính trị
với cha hắn. Ông coi hắn như “thằng phản động”. Khi Gorbachev nổi lên, Liên Xô
sụp đổ, ông đã có những vần thơ căm giận,
nguyền rủa kẻ mà không ít người Việt, trong đó có hắn, coi như ân nhân.
Thế rồi cũng không rõ từ khi nào, ông thay đổi trong lặng lẽ. BS
bỏ nhà nước ra kinh doanh, lờ đảng của ông đi, không thèm “sinh hoạt”, vậy mà
ông không nói gì. Khi hắn tâm sự muốn tự ứng cử Quốc hội, trên giường bệnh, ông gọi điện mời Chủ tịch MTTQ Phạm Thế Duyệt tới để hỏi han, “gửi gắm”.
BS hiểu về cha mình rất ít. Hồi đi học, hắn nghe lỏm người lớn
bàn tán chuyện trong một đại hội đảng,
chỉ có ông Võ Nguyễn Giáp và cha hắn dám lên tiếng phản đối trò “chia tổ” ra của ông Lê Đức Thọ
khi thảo luận những vấn đề gay cấn, “nhạy cảm”. Thời “Đổi mới”, cả nước khí thế hồ hởi, thì ông có tiếng là người cảnh
báo mạnh mẽ về tình trạng mà ông gọi là “tham ô chính sách”, thứ ngày nay
đã nổi lên là công cụ kiếm chác số một của quan tham. Hắn học ông hai đức tính,
liêm khiết và thẳng thắn, nhưng sớm nhận ra và không theo con đường mà ông và
các đồng chí của mình đã chọn và hy sinh suốt đời.
Những năm cuối 1980, đầu 1990, trong các “hội Việt kiều yêu nước”, tổ chức thân chính
quyền miền Bắc từ trước 75’, tồn tại tới khi đó, một làn sóng sôi sục, náo nức.
Liên tiếp những sự kiện, từ Cuộc thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn 1989 cho
tới Bức tường Berlin sụp đổ, rồi cả hệ thống XHCN
Đông Âu đổ theo, đã khiến rất nhiều trí thức, lãnh đạo các hội muốn Việt Nam phải
thay đổi nhanh tương tự, nhất là không khí “Đổi mới” khi đó cũng ít nhiều thuận
lợi. Một số hội gửi tâm thư cho lãnh đạo đảng, quốc hội trong nước đòi phải “đa
nguyên đa đảng”.
BS đã có những cuộc tranh cãi thâu đêm với vài người trong số họ
quanh chủ đề này. Đại để quan điểm của hắn là tán thành Việt Nam phải thay đổi
theo xu hướng đó, nhưng không thể nhanh, mạnh như Đông Âu được, vì bản chất chế
độ chính trị, dân trí, văn hóa ở VN quá khác.
Sau những kiến nghị không thành, cùng với diễn biến trong nước
ngày càng có xu hướng khép lại về tư tưởng, các hội “Việt kiều yêu nước” dần dần
phân rã. Trong nước thì giới trí thức, văn nghệ hụt hẫng, không ít người gặp
phiền toái vì “tự cởi trói” hăng quá.
Bức bối trước hai luồng diễn biến chính trị và quan điểm trái
ngược, hắn đã lặng lẽ viết một bài báo với
tựa đề: “Vì vận mệnh Dân tộc, hãy hy sinh quyền lợi của đảng”, đăng trên tạp
chí Đất Việt của Hội người Việt Nam ở Canada. Đại để trong đó đánh giá thực
trạng Đảng CSVN mặc dù lấy được lòng tin ghê gớm trong dân chúng qua mấy cuộc
chiến, nhưng đã trở nên không còn thích hợp nhiều lẽ, nó phải tự cải tổ, giảm bớt
dần quyền lực, trao vào tay nhân dân, để dần dần tiến tới một nền chính trị đa
nguyên.
Cho đến lúc này, hắn vẫn
không thay đổi quan điểm trên. Những bài báo khác sau này liên quan tới đảng
CSVN như Nếu tôi là lãnh đạo – Sửa ngay hai thói xấu (1989), Đảng viên hay Ông chủ(2006), Tự đề cử, 31 năm – Vết thương chưa lành, Cầu kiều (2007), Cải cách hành chính trước hết từ bộ máy của Đảng (2008),
v.v.. đều liền mạch như vậy, kể cả nhiều tiểu phẩm tếu đả kích những thói hư
tật xấu của giới lãnh đạo cũng mang mục đích tương tự.
3- Dân trí
Khi gia nhập đảng CSVN, nguyện đi theo lý tưởng cộng sản, thế rồi
hắn đã tìm thấy một lý tưởng khác, như viết trong Tuyên
ngôn “Phá vòng nô lệ”.
Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ
và không thể quên.
Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó
hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng
xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải
dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng
Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm có 4 chú cầm gậy chặn bốn
phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác thích
thú để quan sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách nhường
ghế cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm nay, trên
xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành “Nội quy”). Lơ xe
lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui, đeo bên thành
xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.
Người ta làm việc như điên, nhưng tiêu xài cũng dữ. Chiều chiều
là quán nhậu tấp nập, đàn ông lai rai vài xị đế tới tối. Về nhà, đánh một giấc,
sớm mai lại lao vào làm quần quật. Nhậu ở nhà thì vợ con phải cung cúc hết mình
phục vụ, như chuyện đương nhiên. Từ “nhậu” người Bắc học được từ đây, cùng với
những ngôn từ trong Nam được cho là “chịu chơi”, “hiện đại”, như “Tiệm” (hớt
tóc, phở), “Nhà” (may, thuốc)…
Người Bắc nhịn ăn để mặc, người Nam nhịn mặc để ăn. Hắn cho đây
là phát hiện của riêng mình. Có lẽ họ bù trừ cho nhau thì đất nước này sẽ tốt đẹp
hơn, đủ thứ, từ nết ăn ở cho tới tính tình.
Không như Hà Nội, chung cư Sài Gòn khi đó không có chuyện cơi nới,
lấn chiếm hành lang, chỗ công cộng. Người ta quan tâm, giúp đỡ nhau rất tự
nhiên, nhưng lại ít xoi mói đời tư, ganh ăn tức ở như người Bắc.
1979, về miền Tây. Nhiều tháng ăn ở cùng nông dân, thấy rõ con
người ở đây ngoài nét hiện đại bề nổi bằng những vật dụng gia đình, thì thiếu hẳn
một nền tảng văn hóa mà ngoài Bắc có lợi thế của xứ sở đã an cư lạc nghiệp rất
lâu đời.
Sống cùng một gia đình nông dân khá giả ven sông Hậu, hắn vô
cùng ngỡ ngàng và lúng túng về điều kiện vệ sinh. Ao cá vồ với những
chiếc “cầu tõm” đơn sơ là điển hình cho thứ “nhất cử lưỡng tiện” của tiêu hóa
và bài tiết. Những gia đình không có ao thì kênh rạch, sông vừa như “giếng
khơi”, vừa nhà vệ sinh. Vậy mà họ vẫn lấy nước kênh, sông về bể, lóng phèn và uống
“sống”. Có bữa, chiến sự trên biên giới Việt Miên dữ dội, sáng ra, chỉ ít phút
mà ngó thấy cỡ dăm xác người như trâu trương trôi lờ đờ dọc sông. Vậy mà bà chủ
nhà vẫn xách nước lên, đổ vào chiếc lu ngoài cửa, ai đi qua cũng múc uống.
Người dân sợ sệt vô cùng những gì liên quan tới nhà nước. Một bữa,
trong bàn nhậu, thấy anh hàng xóm bị một tay thanh niên mặt non choẹt hoạnh họe
chửi bới mà cứ nín thinh, hỏi sao vậy, anh thì thầm: “Nó là … đoàn viên đấy!”.
Bàn chuyện “dân trí” đương nhiên bao hàm cả với những người
trong cơ quan công quyền, giờ hay được gọi là “quan trí”. Câu hỏi bao nhiêu năm
vẫn đi theo hắn: tại sao cán bộ, nhất là ở những cơ quan pháp luật, với người
dân luôn có ngăn cách rất lớn?
Những gì hắn kể ở phần đầu đã trả lời phần nào câu hỏi. Và còn rất
nhiều nữa.
Những tờ báo hàng ngày thường trực trong công sở là tờ Nhân dân,
Hà Nội Mới, hình như vẫn chưa đủ, một thời còn có quy định giờ đọc báo tập thể
15 phút. Thế mà nhiều đồng nghiệp, trong giờ làm việc chẳng biết làm gì, ngáp
ngắn ngáp dài, ôm tờ Nhân dân xoay ngược xoay xuôi đến nhàu nát, nhưng cũng chẳng
dám chuồn ra ngoài “chạy” việc riêng, vì sợ bị kiểm điểm.
Nhưng kể cả nhiều vị, cũng đi đây đi đó, mà sao vẫn … “nguyên bản”.
Như ông sếp của hắn, có tận 7 năm “lăn lộn” ở New York, vậy mà vẫn rất “chân
quê”, quần đùi vắt lưng ghế, dép lê loẹt quẹt, khạc nhổ tứ tung…
Hắn vẫn tự thấy mình may mắn, khi được quen, được học hỏi những
người có hiểu biết, môi trường sống, làm việc khác hẳn. Những năm tháng còn là
người nhà nước, thì có nghệ sĩ Văn Vượng, đạo diễn Trần Văn Thủy, sau này ra
thành người “tự do” có TS Lê Đăng Doanh, TS Nguyễn Quang A,… là những bậc đàn
anh giúp hắn mở mắt ra thêm ít nhiều. Hắn vẫn hằng ao ước, giá như những người
trong bộ máy đảng, chính quyền, các vị lãnh đạo có được những mối quan hệ gần
gũi, bình đẳng với giới trí thức, văn nghệ, thì đất nước này, người dân VN ta sẽ
đỡ khổ hơn bao nhiêu.
Học không phải chỉ “tri thức”, mà cả lối sống, không chỉ ở những
người “lắm chữ”, có danh vị, mà cả từ những con người bình thường, thậm chí bị
coi như tội phạm.
Nhớ mãi một chuỵên, khi BS mới hơn 10 tuổi, ở nhà nông dân nơi
sơ tán. Trong bữa ăn, hắn gặm qua quít một miếng xương, rồi liệng ra mâm. Cụ chủ
nhà gắp lên, gặm nốt.
Khi tiếp xúc với các sĩ quan, công chức chế độ cũ “cải tạo”, hắn
biết thêm nhiều điều lạ, đáng quý ở họ. Gần gũi với ông Ng., trại Z30D, Hàm
Tân, một cựu thiếu úy cảnh sát đặc biệt, nghe kể nhiều chuyện đời, mới biết ông
có “nghề tay trái”, là đệm đàn guitar điện cho các quán cà phê. Không như người
cán bộ cộng sản, họ hoạt động văn hóa xã hội mà kiếm thêm những đồng tiền chính
đáng, tự nhiên và thấy tự hào. Đến khoảng giữa những năm 80’, khi xem bộ phim “Con
thú tật nguyền” của Hồ Quang Minh, càng thấy những hiểu biết, nhìn nhận của
mình về “đối phương” một thời là đúng.
Có điều, chính những người được tiếp xúc sớm, nhiều hơn với xã hội
dân chủ, văn minh phương Tây, trong đó có giới trí thức, văn nghệ hai miền, đã
xuất ngoại học, làm việc, hay định cư ở nước ngoài, hàng chục năm qua, cũng
không tránh khỏi những cái tật rất Việt Nam của mình, từ lối tư duy, cho tới
tính cách. Hình như họ đáng phải được “nâng cao dân trí” hơn cả người dân, vì
là kẻ dẫn dắt dân chúng đưa xã hội đi tới, đấu tranh, cải hóa giới lãnh đạo
chính trị. Những nhận xét này hắn đã nghiền ngẫm, hì hụi trong 3 tháng một bài
viết công phu: Quyền lực và tri thức.
Và một thành phần xã hội đóng góp quan trọng cho mở mang dân
trí, nhưng lại được ví như thứ “Quyền lực thứ Tư”, đáng lẽ phải lưu tâm trong
bài viết này hơn cả, là làng báo VN. Nhờ đặc thù công việc, hắn may mắn tiếp
xúc nhiều với họ, dễ phải tới trăm người trong mấy chục năm qua. Thế rồi như
nhân duyên, blog và báo cứ đan xen, gắn kết trong công việc, suy nghĩ của hắn
hàng ngày.
4- Blog-báo
Để tiếp nối những gì đã đề cập trong bài Ba Sàm 4 tuổi, xin được trao đổi nhiều hơn những
chuyện “bếp núc” tỉ mẩn hàng ngày.
Giữa giai đoạn “bùng nổ” của loại blog Yahoo!360º, như một bài lược sử blog Việt Nam mới đây viết, hắn
lọ mọ mở blog và tìm hiểu.
Các hệ thống blog tựa như những khu đô thị, nhà cung cấp xây lên
sẵn, cho dân vào ở miễn phí. Ai muốn cơi nới, có thêm dịch vụ… thì bỏ tiền mua.
Đại đa số không cầu kỳ, ở miễn phí là sướng quá rồi. Trên thế giới mạng có rất
nhiều “khu đô thị” như vậy, thế nhưng cư dân mạng VN lại có đặc điểm khác hẳn
phần còn lại của thế giới, họ khoái nhất Yahoo!360º. Có lẽ nó là thứ vừa thích
hợp cho dân nghèo, mà lại thuận lợi cho giao du hơn cả (Facebook sau này đã
phát triển tính năng tương tự). Đặc điểm nổi trội của loại này là mỗi người được
phép có trong danh sách của mình tới 300 người bạn, ai có bài mới, có “câu phát
ngôn” mới là hiện lên ngay. Độc giả còn có thể gửi nhắn tin cho riêng chủ blog
mà vẫn không bị lộ địa chỉ, danh tính. Mối dây liên hệ giữa họ với nhau được
tăng lên theo cấp số nhân. Một lời kêu gọi, như với cuộc biểu tình chống Trung
Quốc cuối 2007 chẳng hạn, là tức khắc hàng vạn người biết. Và chính quyền đã lo
sợ điều đó. Khi tuyên bố đóng cửa Yahoo!360º để thay vào là Yahoo!Plus Việt
hóa, hãng này viện cớ kỹ thuật, nhưng đằng sau có lẽ là trò thỏa hiệp với những
chính thể độc tài mà Yahoo nhiều năm nay vẫn hay bị tai tiếng.
Sau khi đăng những bài báo của mình, BS nảy ra ý định tự dịch
các bài viết về VN trên báo chí ngoại quốc, thứ khi đó còn rất ít trang mạng
quan tâm dịch thường xuyên, còn báo nhà nước thì chỉ… “lược dịch”. Trình độ có
hạn, nhưng được độc giả khắp nơi thẳng thắn góp ý, nên bài dịch ngày càng đỡ
hơn. Mục tiêu mỗi ngày dịch một bài, nhiều bài dịch rồi đăng ngay chỉ sau vài
giờ.
Người góp công nhiều nhất cho bài dịch và rồi cũng là cộng sự
tích cực gây dựng nên blog BS trong thời gian đầu là blogger Trần Hoàng. Tiếp đến,
2-3 năm nay, là BTV, các CTV, blogger, người dịch, cũng chính là độc giả ở khắp
nơi đã lặng lẽ góp phần rất lớn làm cho nội dung của trang súc tích, sinh động
thêm không ngừng. Đặc biệt có vai trò của BTV, là “tiếng nói phản biện” chống lại
chế độ “độc đảng”, “độc quyền cai trị” trong nội bộ blog BS.
Riêng với BS, tại sao có thể để hết công sức, thời gian vào ngôi
nhà chung này được? Bởi vì thật may mắn, hắn
đã có một hậu phương vững chắc, có bạn quản thủ dùm công ty, có người thân lo
toan cho đủ thứ… Cơ quan chức năng đỡ phải băn khoăn có “thế lực thù địch” chu
cấp tiền bạc. Cuộc đời hắn như sang trang mới nữa cũng là từ đó.
Thời gian đầu, nhiều độc giả “chê” blog BS khô khan, toàn chuyện
chính trị, sợ là sẽ khó hấp dẫn. Quả tình khi đó, như bài viết về lịch sử blog
VN đề cập, nhiều blog “hot” là do đưa nhiều tin, hình ảnh sex, kinh dị, chuyện
giật gân. Cho tới hôm nay, tình thế rõ ràng là đã đảo ngược. Dân mình thực ra rất
quan tâm chính trị, chỉ phải cái đảng, nhà nước lại không muốn vậy, làm đủ cách
để dân chán chính trị, nói đúng hơn là nghĩ, bàn chuyện chính trị theo “định hướng”,
trong đó cách quan trọng nhất là thông qua báo đài nhà nước.
Thấy các trang web của 4 đài phương Tây RFI, BBC, VOA, RFA bị tường
lửa, ban đầu, BS đã điểm thêm các tin bài trên các trang này giúp cho độc giả.
Tiếp đến, thấy nhiều bài trên báo nhà nước cũng khá tốt, hắn thử bổ sung, thế
là vấp phải phản ứng khá tiêu cực của bà con, thậm chí còn có nghi ngờ hắn làm
“tuyên vận”…
Khi chuyển sang hệ thống WordPress này, chức năng lên danh sách
bạn bè kiểu Yahoo!360 không có, nhưng thay vào đó là nó cho phép tạo ra danh mục
và đường dẫn (link) nhiều “bất tận” tới các blog, web, báo chí. Vậy là BS lần
mò tìm những blog/web hay, kế đến là các báo trong, ngoài nước, đưa vào danh mục
của mình với hy vọng le lói ban đầu là tạo nên một nơi hội tụ thật nhiều thông
tin, tiện tìm kiếm để phục vụ độc giả. Cuối cùng, khi mọi người đã tập hợp đông
đủ như một cái chợ thông tin họp giữa nhà ga trung tâm, là diễn ra nhu cầu, hoạt
động trao đổi, bàn luận đủ kiểu. Những bài viết, sự kiện, những cơ quan, tổ chức…
có điều gì hay/dở, những con người tốt/xấu đều có thể được hội tụ về đây, phơi
bày, cọ sát, so sánh, được đông đảo cư dân mạng khắp trong ngoài nước tức khắc
nhận biết. Kẻ xấu bị vạch mặt phải biết sợ, người tốt được động viên, gắn bó.
Xin đi vào chuyện “bếp núc”:
- Độc giả có một thành phần quan trọng là các cán bộ đảng
viên, những người đang hoặc đã từng tham gia hệ thống chính trị của chế độ, ít
nhiều gắn bó, còn “kiên định lập trường”, họ rất cần được thay đổi dần nhận thức,
được cung cấp nhiều hơn thông tin đa chiều và trung thực. Tuy nhiên, làm sao
cho họ “tiêu hóa” dần được, tránh bị sốc, “bội thực”, rồi quay lưng là điều
không dễ. Mong những bà con có phản ứng nóng nảy quá, lên án theo kiểu “vơ đũa
cả nắm” mọi cán bộ, đảng viên, hoặc muốn nội dung tin, bài phải mạnh hơn,… có
thể cảm thông điều này.
- Phản hồi của độc giả có ý nghĩa đặc biệt. Có người
đã bảo, vào đây chỉ thích đọc còm của độc giả. Những còm sĩ tiếng tăm nhưng “ẩn
danh” như Nice Cowboy, Hồ Thơm, Bác Ba Phi, Bình Loạn Viên, Đông Hải Long
Vương, Hoang Lan Moc Chau, Hai Lúa, Qx, Xman, D.Nhật Lệ, Bun Thoong, Mongun,
Long A, Trần Quốc, Mèo con, chipheo@, hahien, TRỰC NGÔN_ABS, Tg…, “nổi danh”
như KTS Trần Thanh Vân, Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, GS Huệ Chi, KS Lê Quốc Trinh,
Nhà giáo Hà Văn Thịnh, Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc,… Từ “hội giật tem” rất
đáng yêu mà không một trang mạng nào có được, những bài thơ xuất thần độc đáo
thay cho lời bình luận khô khan, những nhận xét sâu sắc đáng được bổ sung vào bản
tin hoặc đăng thành bài, kể cả những câu cảm thán ngắn ngủi nhưng vẫn đầy ý
nghĩa,… cho tới cả tiếng chửi tục vì không thể kìm nén nỗi căm giận. Ngoài ra,
tuy chiếm số lượng rất ít, nội dung thường sơ sài, nhưng những phản hồi trái
chiều, trái tai với tuyệt đại đa số độc giả cũng vẫn được quan tâm, khích lệ. Tất
cả làm nên một bức tranh sinh động, thiếu đi là mất một phần lớn sức hấp dẫn.
Phần nào vì vậy mà việc giữ hay cắt bớt, bỏ hẳn một phản hồi quá nặng là rất
khó khăn, thường người biên tập tạm cho ẩn, sau đó mới quyết định chính thức.
Do nhân lực, thời gian có hạn, nên không trả lời được mấy các phản hồi của độc
giả, trong khi nhiều có ý kiến rất thú vị. Riêng thư từ gửi tới, BS hầu như hồi
đáp đầy đủ.
- Điểm tin là công việc nặng nhọc nhất mà cũng quan trọng
nhất. Cố bao quát cho hết những vấn đề thời sự mọi mặt, trên cả báo nhà nước,
nước ngoài và mạng tự do; sắp xếp hợp lý, nối kết những tin liên quan, tìm
thông tin đã được đề cập từ trước đó, rồi đọc lướt những tin bài quan trọng để
phát hiện ra câu, ý hay, trích ra, bình luận v.v.. kể cả làm sao để hạn chế
trùng lắp, trong khi các báo cũng hay sử dụng tin bài của nhau. Nhiều độc giả,
các blogger, thậm chí cả các nhà báo cũng đã góp phần phát hiện, giới thiệu
tin, bài quan trọng, vừa sinh động thêm, tính cộng đồng tăng lên, lại đỡ nhiều
công sức cho các thành viên của trang. Mục điểm tin này cũng giúp ích không nhỏ
cho các báo, nhà báo, giới blogger có điều kiện hiểu mình, hiểu người, nâng dần
năng lực, ý thức trong công việc.
- Bài viết được gửi tới khá nhiều, nhưng do nhân sự
biên tập có hạn, lại muốn đảm bảo chất lượng bài vở khi đăng lên, nên nhiều khi
phải từ chối. Thay vào đó, BS cố phát hiện những bài đáng quan tâm trên báo,
blog khác để đăng lại.
- Bài đăng lại có khi bị độc giả phê phán dữ dội; có
người thắc mắc tại sao một bài tệ hại mà lại đưa lên. Lý do: + Tự do thông tin,
có vậy mới đầy đủ bức tranh sáng, tối của truyền thông nước nhà, kể cả cho thấy
sự kém cỏi của vài “thợ viết” bảo vệ quan điểm “chính thống”. + Nếu không đăng
lại, làm sao biết người dân suy nghĩ ra sao về thứ sản phẩm tồi đó, khi mà ở
trang báo “chính thống” thì không có lấy một phản hồi, nhưng đăng lại trên BS
thì hàng trăm ý kiến phê phán. Nó sẽ là sức ép lên chính người viết, tòa báo có
bài đó, sớm muộn, ít nhiều họ cũng sẽ phải thay đổi. Một dạng đăng lại đặc biệt
là các bản “gốc” khi bản “biên tập” được đăng trên báo nhà nước đã không làm vừa
lòng tác giả, do bị cắt xén quá mức. Một trong những ích lợi của công việc này
là tạo nên sức ép nhất định cho tòa báo, với cơ quan chức năng, không thể tiếp
tục mãi lối quản lý cũ kỹ.
- Bài dịch hầu như đều có người khác hiệu đính, thậm
chí nhiều bài còn được chính tác giả - giỏi cả tiếng Việt xem lại lần cuối. Tuy
nhiên, rất nhiều độc giả của BS thành thạo ngoại ngữ cũng đã góp phần chỉnh sửa,
bàn luận, mong là cách này sẽ được quan tâm hơn nữa.
- Danh mục blog, web, báo được cập nhật, điều chỉnh
thường xuyên. Nhưng “lực bất tòng tâm”, nên sẽ tốt hơn nếu như bà con giới thiệu
thêm những blog, web đáng được đưa vào nhưng lại bỏ sót. Ngoài ra, do có khi trục
trặc, nhầm lẫn, có blog vô tình bị mất khỏi danh mục. Ngược lại, có blog nổi tiếng,
nhưng không đưa vào danh mục, hoặc đã có nhưng bị loại ra, đều có chung một lý
do… “nhạy cảm”, không thuộc dạng này thì cũng ở dạng khác mà độc giả có thể cảm
nhận qua những thông tin, bình luận hàng ngày.
- Bình luận của BS và cộng sự là thứ có thể đáp ứng tức
thì, ngắn gọn với một bài viết hay những vấn đề xảy ra hàng ngày mà không phải
chờ đợi, phải cậy đến một bài báo sẽ có ở đâu đó. Những trao đổi, gợi ý của độc
giả qua phản hồi, email gửi tới cũng bổ sung thêm kha khá. Nhưng… để tránh lối
“múa gậy vườn hoang”, rất cần có thêm những ý kiến độc giả tranh cãi với chủ
nhà.
- Tin tức ngoài hệ thống báo chí, văn bản nhà nước, gọi
là tin “vỉa hè”, ở xứ sở không báo tư nhân, báo nhà nước được quản chặt ghê gớm,
là rất có ý nghĩa. Trong số này, ngoài những gì BS và cộng sự trực tiếp thu thập
được, thông tin, hình ảnh do các CTV, nhà báo thân thiết gửi tới, thì nguồn tin
do độc giả cung cấp vẫn còn ít.
Đặc biệt xin cám ơn các cộng tác viên “chiến trường”, lăn lộn
cùng người biểu tình yêu nước, bà con nông dân mất đất, từ Tiên Lãng, Văn Giang…
tới Vụ Bản, không quản vất vả, hiểm nguy. Có người còn bị xã hội đen tới tận
nhà đe dọa nhiều ngày.
* * *
Có độc giả cho là tới khi nào nền báo chí của VN được tự do thực
sự, thì sẽ không còn BS nữa. Nghĩ vậy thì chỉ mới nhìn thấy một nửa tiện ích ở
đây. BS đã từng mơ sẽ có ngày gắn kết blog của mình vào một hệ điều hành dùng
riêng cho các “máy đọc báo” kiểu iPAD và iPhone. Hắn cũng tin là cách làm hiện
nay sẽ “bất tử”, nên rủi mình có ham chơi mà lơ là bỏ bê công việc, cũng vẫn sẽ
có các cộng sự ở khắp nơi cùng độc giả tiếp tục công việc hàng ngày này.
Xin cám ơn các quý độc giả đã kiên nhẫn đọc hết bài viết dài lê
thê này. Vậy mà vẫn còn rất nhiều điều cần trao đổi, đành chuyển tới mục Phản hồi.
Ba Sàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét