Câu nói đầu tiên, ngay trong giây phút trang nghiêm, trọng đại
nhận chức trách người đứng đầu Chính phủ, giây phút được ghi vào lịch sử mở ra
triều đại một Chính phủ mới, câu nói trong giây phút lịch sử không thể lãng
quên đó của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là: Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu
không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay.
Việc làm đầu tiên của ông Thủ tướng chống tham nhũng bằng ngôn từ
hùng hồn là: Giải tán ngay Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nơi hội tụ những
chuyên gia, những trí tuệ thông thái hàng đầu của đất nước về quản lí kinh tế
và quản lí Nhà nước được hai Thủ tướng đàn anh của ông Dũng là Thủ tướng Võ Văn
Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải thành lập, tin dùng và kính trọng, coi Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng như trí tuệ, như túi khôn của nhân dân, của đất nước
giúp họ đường đi nước bước và tầm nhìn trong điều hành hoạt động kinh tế và quản
lí xã hội.
1. LỜI NÓI: DỐI
TRÁ
Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tham nhũng ở Việt Nam chỉ
rải rác, đột xuất và những vụ tham nhũng lớn cũng chỉ vài chục tỉ đồng như vụ đình đám Lã Thị
Kim Oanh gây thiệt hại cho Nhà nước 34 tỉ đồng, tham nhũng vài triệu đô la như
vụ chấn động PMU18, tham nhũng vài nền nhà ở, mỗi nền nhà chỉ trên dưới một
trăm mét vuông đất như vụ ồn ào tư túi đất tái định cư ở Đồ Sơn, Hải Phòng… Chỉ vậy thôi cũng làm cả
xã hội kinh hoàng, sửng sốt, đau xót, nhức nhối, phẫn nộ và xao xác, vơi hụt
lòng tin vào chính quyền. Vì tham nhũng từ chính quyền mà ra, phải có quyền lực
mới có thể tham nhũng.
Đến thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, như được bật đèn xanh, tham
nhũng nhất tề, đồng loạt, rầm rộ nổi lên khắp nơi như mầm cỏ dại gặp hơi ấm mùa
xuân. Các
quan tham từ cấp phường, xã đến cấp Trung ương, Chính phủ đồng khởi ra tay vơ
vét, ngang nhiên lộ mặt tham nhũng. Tham nhũng trở thành bình thường đến mức chỉ
cấp thấp, tham nhũng vặt không đủ ăn chia cho nhiều người nên thân cô thế yếu mới
phải thậm thụt, dấm dúi chiếm đoạt vài chục triệu đồng tiền trợ cấp bão lụt, trợ
cấp xóa đói giảm nghèo, tiền chế độ chính sách thương binh, liệt sĩ, chỉ gây
thiệt hại cho vài cá nhân. Cấp thấp, tham nhũng vặt, thân cô thế yếu, bị người
dân tố cáo, tham nhũng nhanh chóng bị phanh phui và trừng trị đích đáng. Cấp
cao, tham nhũng lớn, ăn chia đều khắp và quyền uy bao trùm thì thản nhiên vẽ ra
những dự án hoành tráng để tham nhũng hàng trăm, hàng ngàn hecta đất như dự án
ma thu hồi hàng ngàn hecta đất nông trường sông Hậu ở Cần Thơ, như dự án quỉ
thu hồi năm trăm hecta đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Thản nhiên lập ra những tập
đoàn kinh tế lớn để tham nhũng hàng chục ngàn tỉ đồng, hàng trăm ngàn tỉ đồng
như tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Vinashin, tham nhũng, vơ vét làm thất
thoát hơn trăm ngàn tỉ đồng.
Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thiệt hai do tham nhũng
gây ra chỉ tính tới triệu đô la, người dân đi khiếu kiện bị quan tham cướp bóc
chỉ là những cá thể đơn độc. Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mỗi vụ tham nhũng gây thiệt hại lên
đến hàng tỉ đô la, lớn gấp ngàn lần, làm lao đao cả nền kinh tế, dìm đất nước
chìm sâu trong nghèo khó, kéo dài cuộc sống khốn khổ, bất an của người dân, làm
rối loạn cả xã hội, gây đau khổ, oan khiên cho hàng ngàn, hàng chục ngàn người
dân. Dân oan bị quan tham cướp đất lũ lượt từng đoàn hàng trăm người giương cờ,
căng banner, giơ cao bảng chữ, đội đơn đi khiếu kiện, tố cáo tham nhũng.
Cả hệ thống quyền lực Nhà nước làm ngơ trước nỗi đau khổ, oan khiên
của chúng sinh, làm ngơ trước cường quyền tham nhũng. Tham nhũng ung dung tồn tại
và phát triển. Quan tham vẫn bình thản, vững vàng trên ghế quyền lực chăn dân,
vẫn cao giọng bảo ban dạy dỗ dân, vẫn hà khắc đe nẹt, cấm đoán, tước đoạt mọi
quyền của người dân, đàn áp, bắt bớ dân oan đi khiếu kiện và vẫn nỏ mồm hô hào,
chỉ đạo học tập, lên lớp giảng dạy đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra hình mẫu, khuôn
thước của một xã hội tham lam và dối trá. Cả một hệ thống quyền lực tham lam và
dối trá. Quan tham tồn tại bằng dối trá. Chính quyền cũng tồn tại bằng dối trá!
Tham nhũng tiền bạc. Tham nhũng đất đai. Tham nhũng cả quyền lực.
Trong các loại tham nhũng đó thì tham nhũng quyền lực là nguy hại lớn nhất, di
họa lâu dài nhất. Lịch sử gần bảy mươi năm cầm
quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có thời nào những người lãnh đạo cấp cao
của đảng lại ngang nhiên giành những chiếc ghế quyền lực lớn về chính trị, quyền
lực lớn về kinh tế cho con cháu, người thân của họ như thời ông Nguyễn Tấn Dũng
là lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng sản, là người đứng đầu Chính phủ.
Trong mùa đại hội đảng bộ cơ sở tiến tới đại hội đảng toàn quốc
lần thứ 11, con trai cả của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được đề cử vào thành ủy
thành phố Sài Gòn nhưng số phiếu bầu cho cậu ấm nhà Thủ tướng Dũng thấp thảm hại.
Bốn trăm người cầm phiếu bầu, chỉ có mười lăm người để lại tên cậu ấm của Thủ
tướng Dũng trong phiếu, còn ba trăm tám mươi nhăm người thẳng thừng xóa tên cậu
ấm. Nhưng chỉ ba tháng sau, đến đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11, người không
đủ tín nhiệm vào ban Chấp hành đảng bộ cấp địa phương, nơi ông ta sống và làm
việc, nơi tổ chức đảng gần gũi, hiểu về ông ta đầy đủ nhất, lại ung dung chiếm
được ghế ban Chấp hành trung ương, tạo thế cho ông ta bước một bước từ phó hiệu
trưởng một trường đại học ở Sài Gòn lên chức Thứ trưởng một bộ mạnh của cả nước,
thuộc hàng ngũ thành viên của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Không vào được ban Chấp hành đảng địa phương lại vào được ban Chấp
hành đảng trung ương vì nhiều lãnh đạo hàng đầu của đảng cũng muốn kiếm chiếc
ghế ban Chấp hành trung ương đảng đầy lợi lộc và quyền uy cho con cái họ làm bệ
phóng vào hàng ngũ quan chức cao cấp Nhà nước chỉ để con cái họ vinh thân phì
gia.
Ông Tổng bí thư họ Nông quê tít trên rừng sâu Na Rì, Bắc Cạn, đại
hội 10 khóa trước đã đôn đáo đưa con trai vào cơ quan quyền lực Trung ương mà
không thành, đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11 là cơ hội cuối cùng, ông phải
làm được việc còn dang dở đó. Phải làm được việc là nỗi bận tâm lớn nhất của
ông ở cương vị Tổng bí thư, ông mới thanh thản rời chính trường về an nghỉ tuổi
già. Ông ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đầy quyền lực
trước khi nghỉ hưu cũng muốn để lại hương hỏa cho con chiếc ghế quyền lực của đảng.
Các ông liền vất bỏ lợi ích của đảng, vất bỏ mục tiêu, lí tưởng và cả thanh
danh của đảng để nhân nhượng, thỏa hiệp, ủng hộ nhau giành chiếc ghế quyền lực
cho con cái. Tổng bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thủ tướng Chính
phủ, những quyền uy lớn đó đều có ơn nghĩa với nhiều vị trí khác trong cơ quan
lãnh đạo cấp cao nắm quyền quyết định mọi vấn đề của đảng. Những quyền uy lớn
đó đã thỏa hiệp, ủng hộ nhau chiếm ghế quyền lực của đảng cho con cái thì việc
bỏ phiếu chỉ còn là thủ tục!
Nhìn ba ông Ủy viên Bộ Chính trị, hai ông chờ nghỉ hưu còn đưa
được những đứa con ở cấp tỉnh, cấp huyện vào cơ quan quyền lực cấp trung ương của
đảng, ông Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, lại đương chức Trưởng ban Tổ chức
Trung ương, nơi quản lí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cao, nơi phân chia quyền lực
thượng đỉnh trong đảng, liền đưa cô con gái mới tốt nghiệp trường báo chí, chưa
có đóng góp gì, chưa được trải nghiệm, chưa được thử thách trong cuộc đời,
không biết gì về kinh tế, càng không biết những qui luật khách quan và nghiệt
ngã của kinh tế và mới hai mươi ba tuổi đời ngơ ngác, nhảy tót lên chiếc ghế
quyền lực lớn về kinh tế, đứng đầu một đơn vị kinh tế Nhà nước hoạt động trong
lĩnh vực của kĩ thuật: xây dựng công nghiệp, doanh thu hàng năm cả ngàn tỉ đồng.
Đất nước không thiếu những người được đào tạo bài bản chuyên sâu
về khoa học kĩ thuật, giỏi kinh doanh và có tài quản lí kinh tế. Chiếc ghế mà
cô con gái hai mươi ba tuổi của ông ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức
Trung ương nhảy tót lên chiếm giữ là chiếc ghế của những người có khoa học kĩ
thuật và giỏi quản lí đó. Mặc dù sau hai tháng sỗ sàng ngồi trên chiếc ghế cao
của đơn vị kinh tế Nhà nước, cô con gái ông ủy viên Bộ Chính trị đã phải rời ghế
nhưng việc chiếm giữ chiếc ghế đó, dù chỉ hai tháng, cùng với việc các ông quyền
cao chức trọng khác trong đảng cầm quyền bất chấp những ngang trái và hậu quả tệ
hại, giành chiếc ghế quyền lực cho con cái họ đã cho thấy những người được dân
cho hưởng ơn cao, lộc lớn để họ chăm lo cho dân, tận tụy với nước nhưng họ chỉ
biết bản thân họ và con cái họ, họ chẳng còn biết đến nhân dân, đất nước. Sự việc
họ giành bằng được chiếc ghế quyền lực cho con cái họ phải được gọi đúng tên là
tham nhũng, tham nhũng quyền lực.
Cả những quan chức hàng đầu của một thể chế, một hệ thống quyền
lực Nhà nước cũng thản nhiên tham nhũng, cả ông Thủ tướng Chính phủ hùng hồn
tuyên bố chống tham nhũng cũng đi đầu đôn đáo, hăm hở, mê mải tham nhũng, nêu tấm
gương lớn cho cả hệ thống quyền lực tham nhũng, tạo ra cả cơn lốc xoáy
tham nhũng, tạo ra một thời bạo liệt tham nhũng thì còn chống tham nhũng nỗi
gì?
Trên thượng đỉnh đã ngang nhiên tư lợi, vô cảm và vô lương tâm với
dân với nước như vậy, bên dưới tội gì phải giữ mình, giữ lương tâm. Doanh nghiệp thuộc tập
đoàn kinh tế Nhà nước trúng thầu một dự án chỉ trên 32 tỉ đồng liền mua ngay
hai ô tô mà giá một chiếc ô tô đã trên 2,6 tỉ đồng tặng quan chức Nhà nước đứng
đầu tập đoàn chủ dự án. Người được tặng không thiếu ô tô sang trọng và tiền mua
ô tô quà tặng không phải là tiền túi của bất cứ ai mà chính là tiền của dân đầu
tư cho dự án. Dự án chỉ 32 tỉ đồng đã bị rút ra hơn 4 tỉ đồng mua ô tô tặng
nhau. Rồi còn bao nhiêu tỉ đồng rút ra chia nhau từ 32 tỉ đồng của dự án? Phung
phí đồng tiền chắt chiu của dân như vậy chính là một dạng tham nhũng. Ngang
nhiên tặng nhau quà biếu tham nhũng. Cả người cho và người nhận đều vô cảm, vô
lương tâm với đồng tiền chắt chiu của dân, đều nhởn nhơ, vô cảm hưởng thụ cuộc
sống giầu sang, thừa thãi trên đất nước xác xơ, trên cuộc sống lam lũ, thiếu thốn,
đói khổ của người dân!
Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ nhưng lương quan chức doanh nghiệp
Nhà nước cứ ngất ngưởng cả trăm triệu đồng tháng, cao gấp vài chục lần lương
bác sĩ sớm khuya miệt mài làm việc trong bệnh viện, cao gấp vài chục lần lương
của những trí tuệ giảng dạy đại học. Đồng lương đó không phải do họ tài giỏi làm ra
mà là tài sản quốc gia, là vốn liếng của doanh nghiệp, vốn liếng của Nhà nước,
vốn liếng của nhân dân. Đó là đồng lương tham nhũng. Quan chức các doanh nghiệp
Nhà nước đều thản nhiên và vênh váo nhận đồng lương tham nhũng đó dù doanh nghiệp
họ điều hành thua lỗ nặng nề, triền miên.
Tham nhũng quyền lực, tham nhũng của cải làm cho hết Vinashin đến
Vinalines, rồi Điện lực, Dầu khí, Than – Khoáng sản... những tập đoàn kinh tế
được đầu tư lớn, được ưu đãi đặc biệt, là trụ cột của ngôi nhà kinh tế đất nước
đều thua lỗ, thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng, ngôi nhà kinh tế đất nước xác
xơ, trống rỗng. Trống rỗng cả nền tài chính đất nước. Trống rỗng cả lòng tin của
người dân vào chính quyền.
Một Chính phủ ngập trong tham nhũng và người đứng đầu Chính phủ
đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị nhấn chìm trong tham nhũng. Danh dự và uy tín
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chìm nghỉm, mất hút trong tham nhũng nhưng Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng không thực hiện lời hứa trang nghiêm, lời hứa danh dự trong
giây phút lịch sử trước Quốc hội, trước nhân dân: không chống được tham
nhũng tôi xin từ chức ngay.
Lời hứa của danh dự, lời hứa
của lịch sử cũng không thực hiện thì liêm sỉ đâu còn nữa. Liêm sỉ của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng cũng chìm nghỉm, mất hút trong tham nhũng. Lời hứa của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng thành lừa dối với nhân dân, dối trá với lịch sử! Sự dối trá của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu tấm gương cho xã hội. Cả xã hội dối trá. Dối
trá là lẽ sống. Dối trá được coi trọng. Dối trá lên ngôi thì sự trung thực
không còn đất sống.
Điều tốt gọi điều tốt. Cấp trên là khuôn thước của cấp dưới.
Quan chức Nhà nước là khuôn thước của xã hội. Công chức Nhà nước nhìn tấm gương
liêm khiết của nhau cùng giữ mình vượt lên trên cám dỗ vật chất bất lương, cùng
cúc cung, tận tụy làm công bộc của dân, lo cho dân, để lại công trạng, để lại sự
nghiệp rạng rỡ cho nước. Đó là thời thịnh. Cái xấu gọi cái xấu. Quan chức rường
cột của Nhà nước đua nhau, hùa nhau làm điều xấu, vơ vét của nước, cướp đoạt lợi
ích của dân, làm lên một thời xấu xa, tồi tệ, đen tối, để lại vết nhơ muôn đời
trong lịch sử. Đó là thời suy.
Ngoài triệu chứng quan tham đua nhau vơ vét của nước, cướp bóc của
dân, đàn áp, tù đày, đánh giết dân, thời suy còn một triệu chứng điển hình nữa
là quan tham đã gây quá nhiều tội với nước, mắc quá nhiều nợ với dân liền vội
vã lấy tiền của nước, lấy mồ hôi và cả máu của dân xây những đền đài thờ tổ
tiên, cúng thần phật, cầu xin thần phật dung tha xá tội, cầu xin tổ tiên phù hộ
độ trì giữ mãi được ghế quan tham, cứ bền bỉ nhiều đời yên vị ăn trên ngồi trốc
vơ vét và cướp bóc. Thời nhà Lê suy tàn, đầu thế kỉ XVI, vua Lê Tương Dực chơi bời
xa xỉ, trụy lạc vô độ, đặt ra nhiều sắc thuế bóc lột dân, nhiều hình phạt độc
ác đánh giết dân, giết cả 15 thân vương trong triều. Trước tội ác quá lớn, Lê
Tương Dực liền sai kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu
Trùng Đài nguy nga cầu xin thần linh che chở.
Ngày nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xây nhà thờ họ ở Rách Giá,
Kiên Giang, lớn gấp trăm lần đền thờ Anh hùng Nguyễn Trung Trực cách đó vài bước
chân, lớp lớp tòa ngang dãy dọc như cung vua nhà Nguyễn ở cố đô Huế. Phó Thủ tướng
Nguyễn Sinh Hùng xây nhà thờ họ Nguyễn Sinh trập trùng đền đài hoành tráng trên
cả vùng đồi núi mênh mông ở Nam Đàn, Nghệ An. Đó là những Cửu Trùng Đài của triều
Cộng sản Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
Những Cửu Trùng Đài xây bằng tiền bạc và của cải thừa thãi, xây
cả bằng sự vênh váo, hợm hĩnh của quyền uy tưởng sẽ bền vững ngàn niên, vạn
niên nhưng những Cửu Trùng Đài xây trên sự tan hoang, kiệt quệ của đất nước,
xây trên sự điêu linh, lầm than của trăm họ, xây trên sự căm giận, phẫn nộ của
người dân thì chỉ là những lâu đài xây trên cát. Những Cửu Trùng Đài vạn niên
đó chẳng bao lâu sau chỉ còn bóng dáng trong câu ca dao mỉa mai của dân gian: Vạn
niên là vạn niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân. Người dân
nhìn những Cửu Trùng Đài nguy nga chỉ thấy ở đó chất ngất của cải tham nhũng,
chỉ thấy ở đó biểu tượng của một thể chế, một triều đại đang xa dân diệu vợi,
đang lao nhanh vào suy vong không gì cứu vãn!
Thời thịnh hay suy là do
chính những người nắm vận mệnh đất nước, nắm thời cuộc quyết định. Quan chức của
Đảng, quan chức Nhà nước từ trên xuống dưới đều suy đốn, tham nhũng và dối trá
đến như vậy, thời suy của Đảng cầm quyền, thời suy của nước đã là hiển nhiên.
Và ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã góp phần rất lớn, phần chủ yếu làm nên thời
suy đó cho Đảng cầm quyền, cho Nhà nước Cộng sản Việt Nam, để lại vết hằn đau
buồn, đen tối trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Dối trá lem lẻm. Tham nhũng hết vụ này đến vụ khác. Tham nhũng
dây chuyền trong cả hệ thống quyền lực Nhà nước. Kinh tế đổ vỡ. Xã hội rối loạn,
bất an. Ở xã hội dân chủ với Nhà nước của dân chứ không phải Nhà nước của Đảng,
chỉ cần một vụ việc trong những vụ việc tày đình trên, ông Thủ tướng đã phải tự
từ chức. Ông Thủ tướng thiếu lòng tự trọng, không từ chức, Quốc hội thực sự của
dân cũng bỏ phiếu phế truất ông. Nhưng ở ta, Nhà nước là của Đảng, Chính phủ của
Đảng, Quốc hội cũng của Đảng. Các quan chức Nhà nước tham nhũng đều là những
nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng, là những thế lực lớn trong Đảng. Người dân bị
tham nhũng cướp đoạt những lợi ích sống còn chỉ còn biết khoanh tay trông chờ Đảng
cầm quyền đóng cửa dàn xếp với tham nhũng trong nội bộ Đảng. Những quyền công
dân cơ bản để người dân tự vệ trước cường quyền, tham nhũng và bất công, người
dân Việt Nam cũng không có!
2. VIỆC LÀM:
KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG BẠO LỰC
Văn hóa bậc thấp, bậc phổ thông cơ sở, ai cũng học được. Nhưng
văn hóa bậc cao, bậc trí tuệ quí hiếm thì không phải ai cũng có thể tiếp nhận.
Phải có tâm thức văn hóa mới hướng tới trí tuệ, mới tiếp nhận được trí tuệ. Chỉ
những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết quí trọng trí tuệ. Hai Thủ tướng lớp trước
ông Dũng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải đều biết quí trọng trí
tuệ, biết sử dụng trí tuệ.
Nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ)
tháng tám, năm 1991, ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt không có một bằng
cấp, một chứng chỉ văn hóa nhưng phải là người có tâm thức văn hóa ông mới nói
được với lớp trẻ Sài Gòn trong đại hội Đoàn của họ rằng: Thành phố soi thấy
tương lai của mình rất sáng trên vầng trán các em. Tâm thức văn hóa đó đã
trân trọng mời những trí tuệ hàng đầu của đất nước về khoa học kinh tế và khoa
học quản lí Nhà nước vào Tổ Chuyên gia tư vấn về cải cách Kinh tế và cải
cách Hành chính mà ngôn ngữ hằng ngày vẫn gọi là Tổ Tư vấn cải cách. Cả những chuyên gia kinh tế hàng đầu của
chính quyền Sài Gòn cũ cũng được tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt trực tiếp mời vào Tổ
Tư vấn cải cách.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt nêu những vấn đề của đường
lối, chính sách kinh tế, xã hội đặt ra với Tổ Tư vấn cải cách và công
việc đối nội, đối ngoại của người đứng đầu Chính phủ dù bận đến đâu, hằng tuần tâm thức văn
hóa Võ Văn Kiệt vẫn giành thời gian chân tình gặp gỡ, lắng nghe, tiếp nhận đề
xuất giải pháp của Tổ Tư vấn cải cách.
Thành lập năm 1993, đến năm 1996 Tổ Tư vấn cải cách được
bổ xung thêm những trí tuệ xuất sắc mới nổi lên và được nâng cấp lên thành Tổ
Nghiên cứu đổi mới Kinh tế, Xã hội và Hành chính với tên gọi nôm na thường
ngày là Tổ Nghiên cứu đổi mới. Đến năm 1998, Tổ Nghiên cứu đổi mới lại
được Thủ tướng Phan Văn Khải nâng cấp lên thành Ban Nghiên cứu của Thủ tướng.
Tổ chức tập hợp những trí tuệ, những lõi sáng của đất nước được khai thác, sử dụng
hiệu quả mới được hai người đứng đầu Chính phủ Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải
trân trọng và liên tiếp nâng cấp lên như vậy.
Tổ chức tập hợp những trí tuệ của đất nước được hai tâm thức văn
hóa Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng như vậy nhưng ông Nguyễn Tấn Dũng
ngồi vào ghế Thủ tướng thì tổ chức tập hợp trí tuệ đó liền bị xóa sổ ngay. Chỉ
những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết quí trong trí tuệ và làm
theo trí tuệ. Giải tán Ban Nghiên cứu
của Thủ tướng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liền mời một viên tướng công an có nhiều
thành tích đàn áp dân chủ, nhân quyền làm đặc phái viên bên cạnh Thủ tướng, tư
vấn cho Thủ tướng.
Trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới từ xưa đến nay,
ngay cả trong thời khốc liệt chiến tranh và đầy biến động chính trị, ngay cả với
những nhà độc tài khét tiếng như Adolf Hitler, Iosif Stalin, Nicolae Ceausescu,
Mobutu, chưa có người đứng đầu Chính phủ nào phải dùng một viên tướng công an
làm cố vấn thân cận, một công cụ bạo lực luôn bên cạnh trong công việc như ông
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Luật pháp Việt Nam cũng không có một điều khoản nào cho phép
ông Thủ tướng được có cố vấn an ninh. Cố vấn thân cận nhất là viên tướng công
an, điều đó cho thấy Thủ tướng Dũng coi trọng công cụ bạo lực như thế nào và
công cụ bạo lực đó chính là tâm thức văn hóa của ông Thủ tướng. Thay những trí tuệ
trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng bằng một viên tướng công an, một bạo
lực Nhà nước, đất nước bị dẫn dắt vào con đường bạo lực, đời sống dân sự bị
công an hóa, bạo lực hóa!
Bị những nhóm lợi ích dẫn dắt, đất nước đã chìm trong những tai
họa của tham nhũng. Không có trí tuệ dẫn dắt, đất nước lại chìm trong những tai
họa đổ vỡ kinh tế. Khinh trí tuệ, trọng bạo lực, bên cạnh Thủ tướng là viên tướng
công an hằm hè nhìn xã hội dân sự qua lỗ tròn của chiếc còng số tám, đất nước lại
chìm trong bạo lực Nhà nước và ngột ngạt tăm tối trong những lệnh cấm, những lệnh
giới nghiêm trong đời sống tinh thần, văn hóa!
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đã bị giải tán. Nơi những trí tuệ
được nói thẳng, nói thật, được đóng góp không còn nữa. Những trí tuệ đích thực
thôi đành về với dân gian. Những viện khoa học nọ, viện khoa học kia thì nhiều lắm, bộ
nào, ngành nào cũng có những viện khoa học sang trọng, hoành tráng, mĩ miều với
đông đảo viện sĩ lấp lánh học hàm, học vị nhưng đó chỉ là nơi những người có bằng
cấp khoa học chia nhau chức danh, chia nhau ghế ngồi để lĩnh lương và để nghĩ
ra những “đề tài khoa học” nhận tiền tỉ mồ hôi nước mắt của dân về chia nhau.
Nghiệm thu xong, chia tiền xong, “đề tài khoa học” xếp vào ngăn kéo, lại hăm hở
tìm “đề tài khoa học” mới. Các Bộ, các Tổng cục của hệ thống hành chính Nhà nước có viện
khoa học thì các Ban của tổ chức Đảng ngang cấp Bộ cũng phải có Viện khoa học.
Viện khoa học Dân vận. Viện khoa học lịch sử Đảng. Viện khoa học Mác Lê nin...
Những viện khoa học mĩ miều đó nhiều như cây trong công viên, mỗi
viện hằng năm ngốn hàng chục, hàng trăm tỉ tiền thuế của dân chỉ để làm dáng
thì cứ bền bỉ tồn tại và liên tục phát triển, viện khoa học mẹ đẻ ra viện khoa
học con. Đó là những viện khoa học chỉ có danh khoa học, chỉ có học hàm, học vị
khoa học mà không có trí tuệ khoa học. Không có trí tuệ khoa học để làm việc
nên họ chỉ còn biết mang danh khoa học ra bán. Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng
nhưng danh khoa học của họ độc quyền bán cho Đảng của họ và bán cho Nhà nước của
Đảng được giá tới bạc tỉ!
Những nhà khoa học chân
chính, những trí tuệ đích thực không thể vô cảm và bất lương như vậy. Người thực sự có trí tuệ
cần mang trí tuệ đóng góp cho cuộc sống và trí tuệ gọi trí tuệ, lương tâm gọi
lương tâm, những trí tuệ và lương tâm đó gọi nhau, tập hợp lại lập lên viện
Nghiên cứu Phát triển, IDS. Không nhận một xu từ tiến thuế của dân, trí tuệ
đích thực là tài sản quí, là vốn liếng lớn sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho đất
nước, tạo ra tiền bạc của cải để phát triển Viện. Nhưng với một ông Thủ tướng
khinh trí tuệ, trọng bạo lực, vừa nhận chức người đứng đầu Chính phủ, ông Thủ
tướng đó liền kí lệnh đuổi những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đi
cho khuất mắt thì viện IDS lại là cái gai ông phải dẹp bỏ, ông liền kí quyết định
97/2009QĐ-TTg trong đó có những điều khoản vô hiệu IDS, làm cho IDS không thể
hoạt động theo tiêu chí của IDS. IDS liền phải tự giải thể!
Những dự án tham nhũng chiếm
hàng trăm, hàng ngàn hecta đất, cướp đất của nhiều làng. Dân nhiều làng phải đội
đơn đi khiếu kiện. Hàng trăm gia đình mất đất. Hàng ngàn người bơ vơ. Mỗi gia
đình một cảnh ngộ, một nỗi đau. Mỗi người một nỗi oan khiên, không ai có thể đại
diện cho ai. Dân đen, thân phận con ong cái kiến, từng tiếng kêu rời rạc, yếu ớt,
lạc lõng không ai đoái hoài. Hàng trăm, hàng ngàn người cùng kêu nỗi oan khiên
dậy đất của một thời đầy ngang trái oan khiên mới mong động đến cửa quan thì
ông Thủ tướng hùng hồn chống tham nhũng bằng ngôn từ lại mau lẹ đứng về phía
quan tham lạnh lùng kí Nghị định 136/2006 cấm dân khiếu kiện tập thể!
Cách mạng công nghiệp chấm dứt nếp sống bầy đàn, không có cá
nhân của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, cho người dân bình thường ý thức về
cá nhân trong cuộc đời. Cách mạng dân chủ tư sản cho người dân quyền con người.
Không có cách mạng công nghiệp, chưa có cách mạng dân chủ tư sản, xã hội Việt
Nam nôn nóng, hối hả bước vào công nghiệp hóa với những con người vẫn mang tâm
lí, nếp sống và thói quen của nền sản xuất nông nghiêp thô sơ, tâm lí, nếp sống
an phận và cam chịu. Dù an phận và cam chịu nhưng con giun xéo mãi cũng quằn,
những nông dân không còn ruộng đất trở thành công nhân trong những nhà máy của
những ông bà chủ tư bản phần lớn là người nước ngoài. Bị chủ tư bản bóc lột tàn
tệ, những công nhân không còn cam chịu được nữa phải bảo nhau, gọi nhau tổ chức
đình công đòi quyền sống.
Công nghiệp hóa không phải chỉ là máy móc công nghệ, thiết bị kĩ
thuật. Công nghiệp hóa trước hết phải là con người, là giải phóng con người, là
mối quan hệ công bằng, bình đẳng giữa người với người. Công nghệ kĩ thuật là điều
kiện vật chất và giải phóng con người là điều kiện xã hội của công nghiệp hóa. Bước chân công nhân đình
công là bước đi tất yếu của xã hội Việt Nam vào công nghiệp hóa, là bước tiến của
xã hội Việt Nam.
Những cuộc đình công vừa chính đáng và cần thiết giành quyền sống
của người lao động, vừa là sự trưởng thành của xã hội Việt Nam nhưng Thủ tướng
Dũng lại sốt xắng đứng ra bảo vệ sự bóc lột tàn nhẫn của những ông chủ, bà chủ
tư bản bằng việc kí nghị định 11 và 12/ 2008 cấm công nhân đình công! Cấm công
nhân đình công đòi quyền sống, Thủ tướng Dũng đã ngăn chặn bước tiến của xã hội
Việt Nam, kìm hãm xã hội Việt Nam mãi mãi dừng lại trong sự bóc lột man rợ của
chủ nghĩa tư bản hoang dã.
3. NGƯỜI DÂN BỊ
KHINH RẺ. QUYỀN CÔNG DÂN KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN. CUỘC SỐNG BẤT AN. TÍNH MẠNG MONG
MANH
Theo tấm gương người đứng đầu
Chính phủ, cả hệ thống quyền lực Nhà nước cứ mặc sức tham nhũng và hành dân.
Người dân chỉ được cam chịu chấp nhận. Dân có tiếng nói phản kháng với cái sai,
cái ác liền có sự trả lời của công an, tòa án và nhà tù! Mọi quyền Con Người cơ
bản của người dân đều bị Cấm! Cấm! Và Cấm! Chưa bao giờ pháp luật bị sử dụng
tùy tiện với dân, bạo lực Nhà nước khắc nghiệt, tàn nhẫn với dân như thời Thủ
tướng Dũng.
Tiến sĩ luật học Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lạm
quyền, cho triển khai dự án bô xít Tây Nguyên không theo đúng qui trình pháp luật,
gây thiệt hại nặng nề cho dân, rước tai họa, nguy nan cho nước. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật là hiện thực bình thường ở mọi nước trên thế giới từ
mấy trăm năm nay nhưng ở Nhà nước Việt Nam Cộng sản cho đến tận thế kỉ 21 của
văn minh tin học, của thế giới phẳng, vẫn chưa có được điều bình thường đó. Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật chỉ là dòng chữ vàng son lấp lánh ghi
trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ để làm đẹp, làm sang cho Hiến pháp Việt Nam. Còn
trong thực tế xã hội Việt Nam hoàn toàn không có sự bình đẳng nhân văn đó. Đơn
kiện ông Thủ tướng của tiến sĩ Vũ hoàn toàn hợp pháp, là tiếng nói chính đáng,
khẩn thiết của nhân dân, của đất nước. Hai cấp tòa, cấp thành phố và cấp tối
cao, đều từ chối, không dám vào cuộc thụ lí đơn kiện của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ
nhưng công an thì quyết liệt vào cuộc, rình rập, bám sát người đứng đơn kiện từng
bước đi, từng cuộc điện thoại.
Tiến sĩ Vũ đi công việc, vào Sài Gòn, ở khách sạn. Công an liền
xông vào khách sạn và trong tay công an có ngay hai bao cao su nhầy nhụa, tạo
chứng cớ hồ đồ, vu vơ, áp đặt, bẩn thỉu, thấp hèn, mờ ám và tàn bạo để bắt tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ. Sự mờ ám, thấp hèn và tàn bạo càng bộc lộ rõ trong phiên tòa xử
người nói tiếng nói dõng dạc, đàng hoàng, chính đáng và hợp pháp của nhân dân,
của đất nước.
Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia quản
lí Nhà nước và xã hội, quyền thảo luận các vấn đề của Nhà nước, quyền kiến nghị
với cơ quan Nhà nước. Những bài viết và nói công khai, đàng hoàng về những
chính sách sai lầm của Nhà nước, về những việc làm tội lỗi của quan chức Nhà nước
của tiến sĩ Vũ là hợp pháp và vô tội. Chỉ có tội khi tòa án chứng minh được người viết
và nói không đúng sự thật. Không chứng minh được điều đó, không xét, tòa án chỉ
xử, chỉ buộc tội. Áp đặt tội tuyên truyền chống Nhà nước cho những bài viết và
lời nói chính đáng, hợp pháp của tiến sĩ Vũ chỉ ra những sai lầm và tội lỗi của
Nhà nước, tòa án đã đồng nhất Nhà nước với sai lầm và tội lỗi.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, phiên tòa công khai mà người dân đến
dự tòa thì bị đàn áp, bắt bớ. Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, trong phiên tòa, bị
cáo và luật sư đều bị chặn họng, không được tranh tụng. Giữa thời văn minh rực
rỡ của loài người, phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ chỉ là sự tái hiện lại cảnh
đấu tố man rợ, mông muội thời cải cách ruộng đất. Ngồi ghế quan tòa không còn
là sự công minh, nhân đạo của luật pháp và công lí mà là sự nhỏ nhen, ngạo mạn,
nhâng nháo, hùng hổ, hằn học hận thù của công cụ bạo lực!
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, hai bao cao su tởm lợm là chứng cứ
duy nhất để bắt khẩn cấp tiến sĩ Vũ nhưng đến phiên tòa, quan tòa cũng nhục nhã
không dám nhắc đến chứng cứ là hai bao cao su ô nhục. Dù không được đưa ra,
không được nhắc đến trong phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo nhưng hai bao
cao su nhầy nhụa, ô nhục còn mãi mãi chình ình và bốc mùi tanh tưởi trong lịch
sử tư pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản, còn mãi mãi nhầy nhụa và bốc mùi ô uế
trong lịch sử cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam.
Dựa vào quyền uy để tham
nhũng, dựa vào bạo lực để bưng bít sự thật, để bóp chết những tiếng nói trung
thực, những vụ bắt bớ phi pháp, những phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo liên
tục diễn ra dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Duy trì đảng cầm quyền đứng trên pháp luật để tham nhũng, bộ máy
công cụ công an của Thủ tướng Dũng đối xử với những người yêu nước vô cùng tàn
nhẫn, mất tính người. Bắt cóc trái pháp luật, giam cầm phi pháp bà Bùi Thị Minh
Hằng, khủng bố tinh thần, hủy hoại thân xác để bịt tiếng nói yêu nước của người
đàn bà quả cảm. Nhưng bộ máy công cụ bạo lực của Thủ tướng Dũng càng độc ác,
man rợ thì tiếng nói lương tâm của người phụ nữ Việt Nam quả cảm, tiếng của lịch
sử Việt Nam càng lay động mạnh mẽ những trái tim Việt Nam, càng vang xa ra thế
giới văn minh, tố cáo với thế giới văn minh về một Nhà nước bạo lực, chà đạp luật
pháp, chà đạp quyền Con Người.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo với những tiếng nói trung thực và yêu nước
là đặc trưng những phiên tòa thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Những phiên tòa đó
sẽ đi vào lịch sử với tên gọi Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng như lịch sử đã
ghi nhận những phiên tòa đưa cổ những người Cộng sản vào máy chém theo luật
10/59 dưới thời ông Ngô Đình Diệm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam là Phiên – Tòa
– Ngô – Đình – Diệm!
Mức độ mờ ám, thấp hèn và tàn bạo của những Phiên – Tòa – Nguyễn
– Tấn – Dũng càng ngày càng tăng và đỉnh điểm về sự mờ ám, thấp hèn, tàn bạo của
Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng là phiên tòa xử ba nhà báo nồng nàn yêu nước
và lẫm liệt khí phách đấu tranh đòi tự do, đòi quyền Con Người, nhà báo Nguyễn
Văn Hải, nhà báo Tạ Phong Tần, nhà báo, luật sư Phan Thanh Hải.
Ông tướng công an là cố vấn kè kè bên cạnh ông Thủ tướng nên
trong xã hội, công an cũng luôn kè kè bên người dân, công an trở thành chủ thể,
là bộ mặt, là tiếng nói của chính quyền với người dân và cũng là hung thần, là
hiện thân của cái ác trong cuộc sống.
Những trí thức viết Kiến nghị gửi lãnh đạo Nhà nước, những nơi
nhận Kiến nghị đều im lặng. Những người lãnh đạo Nhà nước coi dân, coi trí thức
như hư vô, như không có, nếu có cũng chỉ là bầy đàn, bầy ong bầy kiến, không
đáng trả lời. Lãnh đạo Nhà nước không thèm trả lời Kiến nghị của trí thức nhưng
công an thì đến từng nhà người kí Kiến nghị dằn mặt, răn đe.
Công an chặn cửa không cho người dân ra khỏi nhà đi biểu tình chống
Đại Hán cướp biển đảo Việt Nam, giết dân lành Việt Nam. Công an chốt chặn suốt
đêm ngày, ngày này qua ngày khác quanh nhà người có chính kiến khác biệt với
chính quyền, đi đâu một bước công an bám theo một bước. Người có tiếng nói khác
biệt với chính thống vẫn là công dân mà bị công an ngang nhiên tước đoạt quyền
công dân, trở thành người tù ngay trong nhà mình, là người tù ngay trong cuộc sống
đời thường quí giá của cuộc đời. Công an vô cớ xông vào nhà khám xét, bắt người
có chính kiến khác biệt vất lên ô tô chở về đồn công an như chở một đồ vật.
Công an bắt người dân yêu nước biểu tình chống Đại Hán xâm lược rồi vật ngửa
ra, khiêng lên ô tô như khiêng heo cho một công an khác đứng trên bậc cửa ô tô
đạp tới tấp vào mặt người dân yêu nước.
Hành xử với dân như vậy là
hành xử của đám lưu manh, côn đồ. Và lưu manh, côn đồ thứ thiệt cũng được công
an sử dụng như công cụ bạo lực Nhà nước để khủng bố, đàn áp dân. Tự xưng là thương
binh xông vào cơ quan Nhà nước hành hung cán bộ Nhà nước, chửi tục và tụt quần
ăn vạ giữa cơ quan Nhà nước thì chỉ có lưu manh, côn đồ mới hành xử như vậy.
Người dân bình thường cũng đủ tỉnh táo nhận ra đám người tự nhận thương binh
làm trò côn đồ đó theo lệnh của ai. Bảy trăm cơ quan ngôn luận Nhà nước làm ngơ
trước những biểu hiện của xã hội đang bị bạo lực hóa, côn đồ hóa nhưng có tờ
báo lớn của chính thống lại lu loa lên án người bị nạn, bị côn đồ gây sự đe dọa!
Chế tạo ra những thứ hôi thối, bẩn thỉu ném lên tường nhà, đổ
vào cửa nhà dân. Đổ sơn, đốt cổng nhà dân... Những người dân phải hứng chịu trò
côn đồ bẩn thỉu đó là những người đã từng là tù chính trị trong nhà tù Cộng sản,
đã nhiều lần bị công an vô cớ bắt giữ, khám xét nên người dân đều biết rõ ai đã
ra lệnh cho lũ côn đồ làm trò bẩn thỉu đó!
Công an đánh chết dân ngoài
đường, đánh chết dân trong đồn công an diễn ra khắp nơi, ngày càng nhiều. Doanh nghiệp nước
ngoài bị mất một số sản phẩm trong kho. Anh công nhân theo dõi việc xuất sản phẩm
được mời lên đồn công an hôm trước thì hôm sau đã là cái xác không hồn. Cái chết
của anh công nhân cao trên một mét bảy, nặng trên bảy mươi cân được công an giải
thích là do anh tự treo cổ bằng sợi dây điện thoại mỏng manh! Anh công nhân mới
cưới vợ trẻ, hai vợ chồng trẻ có việc làm ổn định, có cuộc sống vững vàng, đã
mua được đất chuẩn bị xây ngôi nhà mơ ước để đón những đứa con của hạnh phúc và
điều quan trọng là anh đã khẳng định mình vô tội trong vụ mất sản phẩm của
doanh nghiệp và đang chứng minh sự vô tội đó vậy mà viện Kiểm sát tối cao sau
ít ngày “điều tra” lấy lệ lại xưng xưng kết luận là anh công nhân tự tìm đến
cái chết vì hối hận! Đó là kết luận của những thế lực liên kết tạo thành những
nhóm lợi ích, kết luận của bạo lực Nhà nước, không phải là kết luận của công
lí, của lương tâm , của lẽ phải.
Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bạo lực đã thay công lí. Cuộc sống chỉ
có Bạo lực! Bạo lực! Và Bạo lực! Công lí như mặt trời trong đêm, không còn có
trong cuộc sống nữa. Bóng công an, bóng bạo lực, bóng tối Trung Cổ đè xuống cuộc
sống. Công an giết dân. Côn đồ giết dân. Mạng sống của người dân quá mong manh.
Xã hội đầy nhiễu nhương, bất an.
Cuộc sống bị công an hóa, bạo lực hóa và Nhà nước đi đầu nêu tấm
gương sử dụng bạo lực trong nhiều mối quan hệ dân sự với dân. Đại tá, giám đốc
công an thành phố chỉ huy cuộc hành quân binh chủng hợp thành, công an và quân
đội phối hợp, bài binh bố trận như một trận đánh sống mái với quân thù, bao
vây, nã súng vào ngôi nhà đơn sơ, chơ vơ trên bãi biển chỉ có đàn bà và trẻ con
của gia đình anh nông dân Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Ba ngàn cảnh
sát chiến đấu của Bộ Công an cùng lực lượng công an huyện, công an tỉnh, áo
giáp, tay khiên, tay súng trùng trùng đội ngũ, ầm ầm ra quân, trấn áp, xua đuổi
vài trăm nông dân tay không, đầu trần, chân đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Bạo lực
Nhà nước được huy động cao nhất giành mảnh đất sống của người nông dân giao cho
nhà tư bản để họ kinh doanh làm giầu trên sự khốn cùng của những người nông dân
đã góp xương máu mồ hôi dựng lên Nhà nước này. Hàng chục người dân lương thiện
đã bị công an đánh chết trong các đồn công an trên cả nước khi người dân bị
công an bắt chỉ vì những lỗi nhỏ trong sinh hoạt như đi xe máy không đội mũ bảo
hiểm, to tiếng cãi nhau với người thân, với hàng xóm...
Đau xót và tủi nhục cho nền văn minh Sông Hồng rực rỡ và cho mảnh
đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm Văn hiến là chính ở trung tâm văn minh Sông Hồng,
chính ở kinh đô ngàn năm văn hiến lại là nơi người dân bị công an đánh chết nhiều
nhất, chết thương tâm nhất. Giữa thủ đô Hà Nội công an treo cao cái slogan chữ lớn bầy
tỏ lòng trung thành của công an với đảng Cộng sản: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình, dưới cái slogan ấy
nhiều người dân Hà Nội đã bị công an đánh chết thê thảm: Ngày 21. 11. 2009,
anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận
Hà Đông, Hà Nội. Chỉ ba tháng sau, ngày 21.1.2010, anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi,
bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm
tháng sau, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy Xuân Tiên, huyện
Chương Mĩ, Hà Nội đánh chết. Tám tháng sau, ngày 28. 2. 2011, ông Trịnh Xuân
Tùng, 53 tuổi, bị trung tá Nguyễn Văn Ninh, công an phường Thịnh Liệt, quận
Hoàng Mai, Hà Nội đánh gãy cổ ở bến ô tô Giáp Bát dẫn đến cái chết trong đau đớn.
Đau đớn cho người đang chờ chết, càng đau đớn gấp bội cho người sống còn lương
tâm. Người dân Hà Nội còn chưa nguôi ngoai, chưa thể vơi nỗi căm phẫn ghê tởm
trước sự độc ác, nhẫn tâm giết người của viên trung tá công an Nguyễn Van Ninh
thì ngày 30.8.2012, công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội ngay trong buổi
chiều bắt giam ông Nguyễn Mậu Thuận, 54 tuổi, vì xích mích với hàng xóm, đã
đánh chết ông Thuận ngay trong trụ sở công an xã!
Nhà nước nào, xã hội đó.
Nhà nước bạo lực tất tạo ra xã hội bạo lực. Những va chạm xích mích nhỏ từ trong gia đình đến
ngoài xã hội đều giải quyết bằng bạo lực, bằng máu, bằng sự tước đoạt mạng sống
của nhau. Cha giết con. Vợ giết chồng. Anh giết em. Người yêu giết người yêu...
xảy ra hàng ngày trên khắp đất nước. Những cuộc thanh toán đẫm máu thường xuyên
xảy ra trên đường phố, trong làng quê. Chú bé Lê Văn Luyện chưa đến tuổi thành niên
lạnh lùng vung dao giết cả nhà bốn người chủ tiệm vàng để vơ một nắm vàng. Thời
bạo lực Nguyễn Tấn Dũng đã sản sinh ra tội ác Lê Văn Luyện.
Đất nước của những bài dân ca, của những câu ca dao, thành ngữ
chan chứa tình yêu thương: Thương Người như thể thương thân, bây giờ là đất
nước của bạo lực, hận thù, của máu và nước mắt! Đất nước Việt Nam hiền hòa, gấm
vóc của tôi ơi, có bao giờ đau đớn và tối tăm thế này chăng?
Văn minh tin học đã mang lại cho Con Người cuộc sống kì diệu, Với
văn minh tin học, Con Người làm được những việc mà trước đây chỉ có thần thánh
trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại mới làm được. Con Người đã trở thành
thần thánh. Được sống với những tiện nghi kĩ thuật do công nghệ thông tin mang
lại, Con Người còn được sống trong những giá trị nhân văn cao cả. Quyền Con Người
đã là phổ quát, là đương nhiên ở mọi xã hội. Nhưng trên đất nước Việt Nam thân
yêu của tôi với ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, giữa kỉ nguyên văn
minh tin học, người dân Việt Nam vẫn chưa được sống kiếp Người, vẫn chỉ là bầy
đàn, bầy ong, bầy kiến, vẫn phải sống trong bạo lực Trung Cổ. Quyền Con Người
bình dị vẫn chỉ là thứ xa xỉ, vẫn là nỗi khao khát, mơ ước của người dân Việt
Nam!
Tôi viết trong nghẹn ngào, đến đây nước mắt đã làm nhòe tất cả,
tôi không thể viết được nữa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét