Hiến pháp và pháp luật nước ta thừa nhận quyền sở hữu của nhân nhân đối với
tài sản của mình, nhưng không có bất cứ một luật nào do Quốc hội ban hành (như
Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao thông đường
bộ, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ...
) bắt buộc người dân phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với một loại
tài sản nào đó của mình.
Không tìm thấy ở đâu
Đó là chưa kể, có loại tài sản, luật
còn qui định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu khi dân có yêu cầu. Chẳng hạn, Luật Nhà ở (khoản 1 Điều 9)
qui định "trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở cho họ”.
Tuy nhiên, có một số loại tài sản tuy
luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn
thực hiện một số hành vi nhất định, hay thực hiện một số giao dịch dân sự nhất
định liên quan đến tài sản, luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu trước khi
thực hiện hành vi đó hay thực hiện giao dịch đó.
Chẳng hạn: Dân xây nhà hay mua một
ngôi nhà không bị luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn đem bán
ngôi nhà đã xây, đã mua đó thì phải đăng ký quyền sở hữu trước khi bán. Tàu biển
không bị luật buộc phải đang ký quyền sở hữu, nhưng muốn neo đậu, đi lại trên biển,
phải đăng ký quyền sở hữu.
Phương tiện giao thông thủy nội địa
không bị luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn hoạt động, Luật Giao
thông đường thủy nội địa qui định phải đăng ký quyền sở hữu.
Và nếu đã sang tên đổi chủ thì phải
thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Máy bay, cảng hàng không không buộc phải đăng
ký quyền sở hữu nhưng muốn đưa vào khai thác thì Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam qui định phải đăng ký quyền sở hữu...,
Cũng vậy, không tìm thấy bất cứ một
điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký
quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng.
Luật Giao thông đường bộ, tại điểm a
khoản 2 Điều 58, qui định người lái xe khi điều khiển phương tiện "phải
mang theo đăng ký xe", không đồng nghĩa là qui định bắt buộc người dân phải
thực hiện đăng ký quyền sở hữu khi xe được mua bán, cho, tặng.
Đành rằng, để có được bản "đăng
ký xe", người dân phải mang xe đi đăng ký. Bản "đăng ký xe" chỉ
là điều kiện cho xe được tham gia giao thông. Muốn thỏa mãn điều kiện này, dân
phải đăng ký quyền sở hữu cho xe. Nhưng việc dân có làm việc này hay không là
do dân tự quyết định chứ Luật Giao thông đường bộ nói riêng, luật do Quốc
hội ban hành nói chung không bắt buộc.
Tiện đây xin lưu ý thêm, khoản 2 Điều
58 nêu trên không bắt buộc người lái xe phải là người có tên trong "đăng
ký xe". Điều này có nghĩa là Luật Giao thông đường bộ chỉ bắt buộc xe cơ
giới muốn tham gia giao thông chỉ cần có bản "đăng ký xe" đi kèm mà
không lệ thuộc vào người đứng tên trong "đăng ký xe". Và do đó, muốn
tham gia giao thông, xe chỉ cần một lần đăng ký, hay nói cách khác là chỉ cần
đăng ký lần đầu, để xe có được bản "đăng ký xe" đi kèm.
Và không đúng thẩm quyền
Và, cũng không tìm thấy bất cứ một
qui định nào trong những luật do Quốc hội ban hành (như Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Công an nhân dân, Luật Giao thông đường bộ,...) có trao quyền cho Chính phủ,
Bộ, cơ quan ngang Bộ được đặt ra qui định này. Đó là bắt buộc người dân phải
đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản này hay kia của mình nói chung, đối với
tài sản là xe cơ giới nói riêng.
a) Bởi vậy, việc đặt ra qui định bắt
buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới như tại Điều 6
Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an qui định về đăng ký
xe là không đúng thẩm quyền.
Bộ Công an chỉ có quyền, có trách nhiệm
qui định về thủ tục đăng ký xe cơ giới. Còn dân có đi đăng ký xe hay không là
thuộc quyền lựa chọn của dân. Dân muốn có bản "đăng ký xe" thì dân phải
đi đăng ký xe.
b) Chiểu theo qui định tại khoản 2 Điều
1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật rằng, văn bản do cơ quan Nhà nước
ban hành không đúng thẩm quyền, không phải là văn bản qui phạm pháp luật thì
qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới tại
Thông tư 36/2010/TT-BCA nêu trên không được coi là một qui định của pháp luật.
Vì nó không đúng thẩm quyền như đã nêu ở điểm (a) trên đây.
c) Theo qui định tại Điều 1 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính cũng như tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành
chính sắp có hiệu lực thi hành, rằng hành vi vi phạm hành chính trước hết phải
là hành vi vi phạm qui định của pháp luật, thì việc người dân không đăng ký quyền
sở hữu đối với xe cơ giới không phải là hành vi vi phạm hành chính.
Vì nó không phải là hành vi vi phạm
qui định của pháp luật do qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu
xe cơ giới của Bộ Công an, không phải là một qui định của pháp luật như đã nêu ở
Điểm (b) trên đây.
Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính cũng như theo điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành
chính rằng người dân chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có vi phạm hành
chính, thì việc cơ quan chức năng xử phạt người dân do họ không thực hiện đăng
ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới là sự vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính, cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành.
Vì việc không đăng ký quyền sở hữu đối
với xe cơ giới không phải là một hành vi vi phạm hành chính như đã nêu ở điểm
(c) trên đây.
Nói một cách khác, việc Điều 33 Nghị
định 34/2010/NDD-CP (được sửa đổi bởi Nghị định 71/2012/NĐ-CP) của Chính phủ đặt
ra qui định xử phạt người dân về việc người dân không chuyển quyền sở hữu ô tô,
xe máy theo qui định; hay nói nôm na là không thực hiện sang tên, đổi chủ khi
mua bán, cho, tặng ô tô, xe máy là vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành.
Về phía người dân, dù luật do Quốc
hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe
hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để
mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản.
|
Nên qui định này cần phải được đình
chỉ việc thi hành, hủy bỏ hay bãi bỏ theo qui định tại những điều khoản có liên
quan của Chương XI Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
Chiểu theo Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính cũng như Luật Xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực, Chính phủ chỉ
có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không mang theo
"đăng ký xe" khi xe tham gia giao thông mà không có quyền qui định xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký quyền sở hữu xe.
Về phía người dân, dù luật do Quốc hội
ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi
được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có
thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản.
Chẳng hạn như, nếu xe không chính chủ
thì không thể đem xe làm đảm bảo cho các giao dịch dân sự; không thể đem cầm cố,
thế chấp để vay tiền ngân hàng. Đặc biệt, để pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, nhất
là đối với những xe có giá trị lớn.
Đối với người bán, cho, tặng xe đã
đăng ký quyền sở hữu theo tên mình, vì Luật Giao thông đường bộ có những qui định,
như khoản 5 Điều 4, khoản 4, 5, 10, 13, 14, 16, 22, 23 Điều 8, khiến người có
tên trong "đăng ký xe" có thể rơi vào phiền toái, rơi vào trách nhiệm
pháp lý, thậm trí là trách nhiệm hình sự khi có vi phạm qui định của pháp luật
về xe, về người lái xe.
Thì để tránh điều này, người bán,
cho, tặng xe hãy buộc người mua xe, người được cho, được tặng xe thực hiện ngay
việc đăng ký quyền sở hữu để mình hết trách nhiệm. Vì, khi không chứng minh được
việc xe đã được bán, cho, tặng thì người có tên trong "đăng ký xe" vẫn
là chủ sở hữu của chiếc xe.
Hồ Sỹ Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét