Đại tá Bùi Văn
Bồng
Nhà báo Quân đội nhân dân
Số 178/ D13, đường 3-2, phường Hưng Lợi.
Quận Ninh Kiều, T.p Cần Thơ
Email: bvbongqd@gmail.com
Sau thắng cuộc 1975, Việt
Nam nổi tiếng trên thế giới là dân tộc anh hùng, một dân tộc kiên cường gan góc
chống giặc ngoại xâm, một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, đã mấy nghìn năm
không bao giờ chịu khuất phục trước mọi thế lực ngoại bang xâm lược, thôn tính.
Thế nhưng, hiện nay cả dân
tộc đang đặt trước nhiều nỗi sợ, thậm chí bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết,
người dân cả nước đã thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh
khác, nay rất yêu chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối
với dân tộc Việt Nam là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời
này sang đời khác. Nay tuy đã 24 năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường
Sa (1988), nhưng đất nước vẫn chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập
cận kề. Rõ nhất là những ẩn chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng phát chiến tranh
biển-đảo, biên giới. Vì thế, nối sợ chiến tranh, nỗi sợ mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường
trực ngày đêm, canh cánh không yên lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất.
Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền đang rất sợ
Đảng Cộng sản bị tiêu vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này, gần đây
đã liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng. Đảng
càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị coi là
nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên Bộ Chính trị,
các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất Đảng, nhiều người đã
tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này rồi thì tình huống “vong” của
Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà "một bộ phận không nhỏ lãnh đạo có
chức có quyền suy thoái, biến chất" thì còn đâu sức sống? Tồn tại càng lâu
thì tác hại đến xã hội càng lớn, chưa nói đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo
xã hội!
Suy cho cùng, nhất là
sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng ta cứ liên tục đưa ra, có khi hô toáng lên nào
là “diễn biến hòa bình”, nào là “thế lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên
thua cuộc”, nào là mầm mống phản động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi
“đa nguyên đa đảng”… Nghĩa là, Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc
nào cũng sợ kẻ nào đó giật mất quyền của mình. Nhưng, gần đây, những tiếng
nói trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc phải
công nhận.
Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá, không có “diễn biến
hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên nhân chính là Đảng ta đã tự
phá banh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự diễn biến”, nghĩa là người cộng sản
tự đào hố chôn mình! Phân tích cho rõ: “Diễn biến hòa bình” là sự mắc mưu Trung
Quốc, họ muốn độc tôn với Việt Nam, muốn chính phục, chi phối Việt Nam từ chính
trị đến đối ngoại, từ kinh tế đến văn hóa-xã hội. Nghĩa là sự thôn tính thông
qua cái gọi là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của “xâm lược mềm”,
chinh phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của
Trung Quốc trong chiêu bài “diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện)
hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu
hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu,
phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc,
phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe… Rằng: Việt Nam phải
hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ
đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ.
Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy,
Việt Nam cần cảnh giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta
đã gói chặt ôm về “gối đầu giường” từ sau Hội nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê
thuốc lú đã ngấm sâu vào thần kinh và nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về”
16 chữ vàng, 4 tốt, để mê muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng
khác nào Bạch Cốt Tinh hóa cô nàng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy.
Như thế, các vị, các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính
mình trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ
thường trực,
do sự chuyển hóa rất siêu nghệ của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng
Mác-xít) là chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân, bỗng quay sang
“chuyên chính với nhân dân”, chuyên chính với ngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự khoe là
“ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”… Đã có quyền trong tay, thế
lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảng ngày càng đông đảo, được chính quy hóa, nhất
là công an, thanh bảo kiếm trung thành bảo vệ Đảng, ai mà không ngán? Dù bài
hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3: “Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được
mang danh thanh bảo kiếm trung thành / bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực lượng công an
rất tài. Chỉ thấy bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và cũng qua đó mất
đi ý nghĩa “chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng,
khi người dân thấy bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản
xạ thường trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn
minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện
lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ
không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp,
sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh
hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và
do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy
cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng kêu
gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn dân đánh giặc, nuôi chí anh hùng;
nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem nhẹ, coi thường lòng yêu nước, làm nhụt chí
anh hùng, xóa nhòa niềm tự hào dân tộc. Mọi nỗ lực dân chủ đều bị khoanh
hẹp, thậm chí triệt tiêu, quyền lực của dân bị chặt hết, đồng tiền có quyền lực
tối cao, chức quyền ra sức thống trị; cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán
ngại, sợ sệt đối với người dân. Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh cả tính mạng, của cải
để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo vệ dân, còn ức hiếp dân, thậm
chí nặng về quan liêu, mệnh lệnh: "bảo cái gì dân cũng phải nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn
vong của Đảng, của chế độ cần nhận diện và thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được
mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã
“tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút
gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp
thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe
đài, đọc báo, mở mạng Internet, thậm chí cả khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn
trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều bị theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết
chuyện này đến tội danh tội trạng khác? Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó
sau, tự biết canh chừng, sợ “ếch chết vì ộp ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường
trực ngày đêm của mọi công dân, kể cả trí thức, nhà báo, đảng viên đến mức mát
hẳn quyền con người, ăn không ngon, ngủ không yên là do ai gây nên? Do
quan điểm của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lọi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý:
Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ sẵn tiền,
chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ công an, công an sợ
côn đồ, dân lành sợ lưu manh, làm ăn sợ đánh thuế, mua hàng sợ hàng gian hàng
giả, ăn uống sợ độc hại, sợ mắc bệnh ung thư. Rồi nữa: Đảng viên sợ 19 điều cấm;
đi bộ đội sợ hy sinh không được công nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp hương đặt
hoa tưởng niệm; người lao động sợ mất việc, học nghề sợ thất nghiệp, ra chợ sợ
giá cả, ốm đau sợ không đủ tiền mua thuốc.
Những cái tưởng như
“chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường
sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng
tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết
sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính
chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy
thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều
hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình
chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ / Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại
dương / Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. / Mộng thật cam go / Miễn
là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao
cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh
Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị
lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai cũng canh cánh nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt
đẹp, là "ưu việt"? Làm sao mà phát triển được đất nước sánh vai với
các nước? Cho nên, với hiện trạng này, câu kết trong
các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng 'bổn cũ soạn lại' đọc đến phát
ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng nhàm chán, vô nghĩa mà
thôi.
có nơi nào như tổ quốc tôi.?
Trả lờiXóacó nơi nào như đất nước tôi ?
có nơi nào như nước viêt tôi ?
bắc triều tiên :-)
Xóa