Việt Nam sẽ nhận được chiếc tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên
trong năm 2012. Trên tạp chí của Học viện Hải quân Hoa Kỳ (USNI), ngày
21/08/2012, giáo sư Carlyle A. Thayer
có bài phân tích hiệu quả của hạm đội tàu ngầm trong việc bảo vệ biển đảo của
Việt Nam. Sau đây là bản dịch.
Ngày 15/08/2012, báo
Thanh Niên đã đưa tin là Việt Nam sẽ nhận chiếc tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên vào
cuối năm nay. Việt Nam còn đặt hàng 5 tàu ngầm Kilo khác và dự kiến sẽ tiếp nhận
mỗi năm một chiếc. Theo Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang
Thanh, Việt Nam sẽ phát triển một hạm đội tàu ngầm hiện đại trong 5-6 năm tới
(2016-2017).
Trong cuối những năm
1980, Việt Nam đã tìm cách mua chiếc tàu ngầm đầu tiên từ Liên Xô. Đoàn thủy thủ
được lựa chọn và được đào tạo trên chiếc tàu ngầm diesel Project 641 thuộc Hạm đội
Thái Bình Dương của Liên Xô. Chương trình này đã bị tổng bí thư Mikhail
Gorbachev đình chỉ vì lo ngại làm cho Trung Quốc bực tức. Với sự sụp đổ của Liên
Xô, hy vọng của Việt Nam có được tàu ngầm đã không thành hiện thực.
Trong thỏa thuận đổi gạo
lấy vũ khí, năm 1997, Việt Nam đã mua hai chiếc tàu ngầm loại nhỏ, lớp Yugo của
Bắc Triều Tiên. Các tàu này neo đậu tại Vịnh Cam Ranh để tu sửa. Trong 13 năm sau
đó, các nhà phân tích không biết rõ khả năng hoạt động của các con tàu này.
Tháng Giêng 2010, báo Tuổi Trẻ đã tiết lộ nhiều về sự tồn tại của M96, một đơn vị tàu ngầm bí mật của Việt
Nam, với bức ảnh chụp chiếc tàu ngầm Yugo và đoàn thủy thủ. Các tàu ngầm
Yugo đã được sử dụng cho các hoạt động dưới đáy biển. Theo một tùy viên quân sự
phương Tây ở Matxcơva, "Kinh nghiệm từ tàu ngầm loại nhỏ cung cấp nền tảng
cơ bản cho sự hiểu biết các hoạt động tàu ngầm và bảo trì".
Mong muốn của Việt Nam
có được một chiếc tàu ngầm với kích cỡ thông thường đã tăng lên rõ rệt vào năm
1997 sau chuyến thăm cảng Cam Ranh của tàu ngầm Nga Project 636 lớp Kilo. Năm
2000, các thông tin, không được xác nhận, cho biết là Việt Nam và Nga đã ký biên
bản ghi nhớ liên quan đến khả năng bán tàu ngầm. Cũng trong năm đó, Việt Nam và
Ấn Độ đã ký một thỏa thuận quốc phòng trong đó có một điều khoản liên quan đến
việc hải quân Ấn Độ đào tạo thủy thủ cho Việt Nam, kể cả thủy thủ tàu ngầm.
Bối cảnh
Trong tháng 10/2002,
Việt Nam đã yêu cầu Ấn Độ đào tạo về tàu ngầm, nhưng bốn năm sau, Ấn Độ mới thông
báo bắt đầu đào tạo các sinh viên sĩ quan và sĩ quan hải quân Việt Nam. Hiện nay Ấn Độ đang huấn luyện các quy trình
thoát hiểm ở tàu ngầm cho các thủy thủ Việt Nam.
Năm 2008 đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng. Việt Nam không thành công trong việc tìm cách mua tàu ngầm
kích cỡ thông thường từ Serbia. Sau đó, Việt Nam quay sang Nga và đã đạt được một
thỏa thuận nguyên tắc để mua 6 tàu ngầm Project 636M lớp Kilo. Trong năm 2008,
bộ trưởng Quốc phòng và chủ tịch nước Việt Nam đã có các chuyến công du Matxcơva
để thúc đẩy thỏa thuận này.
Trong năm 2009, các
nguồn tin từ giới công nghiệp Nga đã được công khai. Ngày 24/04, ông Vladimir Aleksandrov, tổng giám đốc Admiralteiskie
Verfi (Nhà máy đóng tàu Admiralty) ở St Petersburg, thông báo là công ty của ông
đã được chỉ định thực hiện hợp đồng chế tạo 6 tàu ngầm Project 636 lớp Kilo. Giá mỗi chiếc tàu ngầm này là 300-350 triệu đô la và tổng
giá trị hợp đồng là 1,8 – 2,1 tỷ đô la.
Hợp đồng chính thức
mua 6 tàu ngầm lớp Kilo đã được ký kết tại Matxcơva giữa công ty xuất khẩu vũ
khí Nga Rosoboronexport và bộ Quốc phòng Việt Nam, trong tháng 12/2009. Tổng thống
Nga Vladimir Putin và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến lễ ký kết. Nhà máy
Admiralty bắt đầu đóng chiếc tàu ngầm đầu tiên trong số 6 chiếc, trong lễ khởi
công ngày 24/08/2010. Tàu ngầm này được
hạ thủy ngày 28/08/2012, và trải qua một loạt thử nghiệm trên biển trước khi
chuyển giao cho Việt Nam.
Hợp đồng bán mua tàu
ngầm Nga-Việt Nam cũng bao gồm các điều khoản - ngoài việc cung cấp 6 tàu ngầm –
liên quan đến việc đào tạo thủy thủ đoàn và xây dựng một cơ sở bảo trì trên bờ.
Trong tháng 3/2010, Việt Nam chính thức yêu cầu Nga giúp đỡ xây dựng một căn cứ
tàu ngầm ở vịnh Cam Ranh.
Tàu ngầm Project 636M –
lớp Kilo
Tàu ngầm Project 636M
chính là loại tàu ngầm lớp Varshavyanka của Nga, nhưng nó được biết đến nhiều hơn
theo phân loại lớp Kilo mà NATO đưa ra. Kilo
là một loại tàu ngầm phi hạt nhân tấn công nhanh (SSK). Nó có thể thực hiện các
nhiệm vụ sau đây: Chống tàu ngầm và tàu chiến, bảo vệ duyên hải, rải thủy lôi,
trinh sát và tuần tra.
Việt Nam đã đặt mua loại
tàu 636MV mới nhất, được cải tiến, với phạm vi hoạt động, tốc độ, sự chắc chắn,
độ bền vững, các đặc tính âm thanh, tiếng động và hỏa lực đều tốt hơn so với
phiên bản trước đó.
Tàu ngầm Project 636 lớp
Kilo đã được Hải quân Mỹ mệnh danh là "lỗ đen" do mức độ tĩnh lặng của
nó khi hoạt động. Khả năng tàng hình của tàu ngầm Project 636 đã được cải tiến
qua việc loại bỏ các van của khoang chứa nước và thân tàu được phủ nhiều lớp “ngói
cao su” chống dội âm. Các lớp “ngói” này được gắn vào phần thân tàu và cánh ngầm
nhằm hấp thụ sóng âm chủ động, qua đó, làm giảm và bóp méo các tín hiệu phản
hồi. Các lớp “ngói chống dội âm” cũng ngăn chặn âm thanh phát ra từ trong tàu,
làm giảm khả năng bị phát hiện bởi sóng âm thụ động.
Tàu ngầm lớp Kilo cải
tiến dài 73,8 mét (242 ft), rộng 9,9 m (32,4 ft), với mức mớn nước là 6,2 m
(20,34 ft). Lượng choán nước khi nổi là 2.350 tấn và có thể lặn sâu đến một phần
tư dặm. Tàu lớp Kilo cải tiến được trang bị động cơ diesel-điện, có phạm vi hoạt
động 9.650 km (5.996 dặm) và có thể lặn liên tục 700 km (434 dặm), với tốc độ
2,7 hải lý (5km/giờ) ở tốc độ thấp, yên tĩnh. Tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải
lý (37km/giờ). Việt Nam dường như đã không chọn loại tàu trang bị hệ thống Air
Propulsion độc lập có thể cho phép kéo dài thời gian hoạt động tuần tra. Thủy thủ đoàn của tàu lớp Kilo cải tiến có
57 người.
Tàu ngầm Project 636MV
có 6 ống phóng ngư lôi 533mm ở phía trước. Nó có thể mang tới 18 thủy lôi (6 nạp
trong ống và 12 trên dàn phóng) hoặc 24 thủy lôi (mỗi ống có 2 quả và 12 quả trên
dàn). Hai trong số các ống phóng ngư lôi
được thiết kế để điều khiển từ xa việc phóng ngư lôi với độ chính xác rất cao.
Tàu lớp Kilo cải tiến cũng có thể bắn chặn tên lửa hành trình chống tàu với ống
phóng ngư lôi. Tàu lớp Kilo cũng mang tên lửa phòng không MANPADS Strela-3.
Trong tháng 6/2010, có tin nói rằng tổng chi phí hợp đồng mua tàu ngầm của Việt
Nam đã tăng từ ước tính ban đầu là 1,8 – 2,1 tỷ đô la lên thành 3,2 tỷ đô la. Các chi phí bổ sung bao gồm cả việc trang bị vũ khí và xây
dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn tin công nghiệp quốc phòng cho biết là các tàu ngầm lớp
Kilo của Việt Nam sẽ được trang bị loại ngư lôi 53-56 hoặc loại TEST 76 hạng nặng.
Nguồn tin này cũng dự đoán rằng tàu lớp Kilo của Việt Nam sẽ được gắn tên lửa
chống tàu chiến, như 3M-54E hoặc 3M-54E1. Trong tháng 7/2011, ông Oleg Azizov, đại
diện của công ty Rosoboronexport, khẳng định, Việt Nam sẽ nhận được loại tên lửa
chống tàu chiến Novator Club-S (SS-N-27), với tầm bắn xa 300km.
Môi trường hoạt động
Việt Nam mua tàu ngầm
lớp Kilo phục vụ các hoạt động trong vùng nước tương đối nông ở Biển Đông. Khi được
đưa vào hoạt động, tàu ngầm sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực giám sát các hoạt
động của tàu thuyền bán quân sự nước ngoài và các tàu hải quân ở vùng biển ngoài
khơi miền duyên hải Việt Nam và các vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa.
Ngoài ra, các tàu ngầm lớp Kilo sẽ tạo
phương tiện răn đe chống lại khả năng Trung Quốc có ý định nhanh chóng đánh chiếm
một hòn đảo hoặc bãi đá mà Việt Nam chiếm giữ ở Biển Đông. Tổng quát hơn, tàu lớp Kilo sẽ cung cấp một khả năng chống
tiếp cận khu vực, tuy khiêm tốn nhưng đủ mạnh, trước sự đe dọa của các tàu chiến
của Hải quân Trung Quốc.
Trước khi có được những
khả năng này, Việt Nam sẽ phải hội nhập được số tàu ngầm lớp Kilo này vào trong
cơ cấu lực lượng quân sự và vào quá trình chuyển đổi lực lượng chiến đấu trên
hai phương diện (trên mặt nước và trên không) sang ba phương diện (trên không,
trên mặt nước và dưới mặt nước). Việt Nam cũng sẽ phải tìm kinh phí để bảo trì
và sửa chữa cho phép các tàu lớp Kilo có thể hoạt động, và phát triển khả năng
cứu hộ tàu ngầm. Các nhà phân tích công nghiệp quốc phòng dự báo là việc sử dụng
và khai thác có hiệu quả loại tàu ngầm Kilo của Việt Nam sẽ ở trình độ nằm giữa Singapore và Indonesia. Các nhà phân
tích này cho rằng việc Việt Nam phát triển một hạm đội tàu ngầm thực sự hiện đại
trong những năm tới phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ lâu dài của Nga và Ấn Độ.
(Carlyle A. Thayer là giáo sư danh dự về chính trị học, Đại
học New South Wales tại Học viện Quốc phòng Úc, Canberra)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét