+ Trong những tháng đầu năm nay, người ta thường nghe các nhà
phân tích nhấn mạnh sức mua yếu kém của thị trường như một dẫn chứng cho tình
hình khó khăn của nền kinh tế. Tuy
nhiên, nhận định về sức mua như thế thường không được hỗ trợ bằng số liệu nào cả.
Trong thống kê tình hình kinh tế sáu tháng đầu năm, Tổng cục Thống
kê chính thức đưa ra những con số liên quan: Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ
yếu tố giá thì tăng 6,5%. Cụ thể hơn, kinh doanh thương nghiệp tăng 18,9%;
khách sạn nhà hàng tăng 20,2%; dịch vụ tăng 22,3%; du lịch tăng 26,6%.
Như thế sức mua của thị trường nhìn chung đâu có giảm sút, thậm
chí còn tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Ở một ví dụ khác, chúng ta cũng thường đọc trên báo chí hay nghe
các doanh nghiệp phát biểu về những khó khăn gay gắt của họ, nhiều trường hợp
đóng cửa, nhiều trường hợp khác phải thu gọn quy mô sản xuất. Chắc chắn với đại
đa số không hề có chuyện đầu tư mở rộng.
Thế nhưng lý giải làm sao đây khi Tổng cục Thống kê cho biết sáu
tháng đầu năm, đầu tư từ khu vực tư nhân vẫn tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước!
Nếu biết rằng tín dụng sáu tháng đầu năm chỉ tăng 0,76%, một mức tăng không
đáng kể thì làm sao lý giải khu vực tư nhân lấy vốn từ đâu để tăng 18,1%? Lưu ý
là cả hai con số, mức tăng hàng hóa bán lẻ và đầu tư tư nhân trong sáu tháng đầu
năm 2012 đều cao hơn mức tăng của các lãnh vực này trong năm 2011.
Ở đây có hai khả năng xảy ra: một là con số của Tổng cục Thống
kê đưa ra không chính xác; hai là các nhận định trước đó trên các phương tiện
thông tin đại chúng chỉ đúng với một số trường hợp và sai với toàn bộ nền kinh
tế. Không có cách gì để khẳng định khả
năng nào đúng. Trước mắt, có lẽ tất cả
chúng ta đều phải dè dặt trước mọi con số hay mọi phản ánh mang tính khái quát
hóa vội vàng.
***
+ Trong khi tính chính xác của các con số chưa được minh định rõ
ràng, sức mua đã cạn kiệt của người dân được đem ra để giải thích cho hiện tượng
chỉ số giá tiêu dùng giảm liên tiếp trong hai tháng qua.
Kể cũng lạ, trước đây có những chuyên gia kinh tế phân
tích chi li cái
hại của lạm phát lên nền kinh tế, nhất là lên mức sống của người dân nghèo bởi
họ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất khi giá cả tăng cao. Nay cũng những
chuyên gia này lại cảnh báo tình trạng giảm phát sẽ “bất lợi cho những người sống
chỉ dựa vào nguồn thu nhập cố định”!
Với lạm phát, tâm lý thị trường còn quan trọng hơn cả con số.
Tâm lý kỳ vọng chỉ số giá cả tăng cao vẫn còn rất mạnh, người tiêu dùng vẫn còn
bị ám ảnh bởi khả năng giá sẽ lên nữa. Vì thế, có lẽ cần bình tĩnh để thấy nói
đến nỗi lo giảm phát hiện nay là quá sớm. CPI giảm chủ yếu do giá lương thực và
năng lượng giảm; nếu hai yếu tố này quay đầu tăng trở lại, lạm phát vẫn sẽ là nỗi
lo lớn chứ không phải là giảm phát.
***
+ Có những quy định không
ai biết vì sao được sinh ra nhưng vẫn tồn tại dai dẳng, bất kể những hệ lụy to
lớn chúng gây ra. Cộng đồng doanh nghiệp từng kiến nghị dai dẳng về chuyện
không được chi quá 10% tổng chi phí cho quảng cáo, khuyến mãi bởi họ cho rằng
áp đặt một mức trần như thế không có ý nghĩa gì cả ngoài việc trói chân trói
tay doanh nghiệp. Ngày xưa lúc Việt Nam mới mở cửa, quy định như thế
là nhằm ràng buộc các tập đoàn đa quốc gia thường mạnh tay chi tiền quảng bá
lúc mới thâm nhập thị trường, giúp các doanh nghiệp non trẻ trong nước cạnh
tranh ngang sức hơn. Thật ra, mức trần này không hề là rào cản với các tập đoàn
này bởi họ phân bổ chi phí quảng cáo cho một chi nhánh nào đó ở nước ngoài
trong khi một doanh nghiệp trong nước mới ra đời, muốn chi mạnh để tìm chỗ đứng
trong tâm trí người tiêu dùng cũng đành chịu.
Đọc quảng cáo của một hãng chuyên bán điện thoại di động, rằng nếu
mua chiếc điện thoại X với giá 8,6 triệu, khách hàng sẽ được tặng quà khuyến mãi
trị giá lên đến 6,8 triệu, người tinh ý sẽ biết hãng này làm sai quy định. Bởi
theo luật, giá trị hàng hóa dùng để khuyến mãi không vượt quá 50% giá của hàng
hóa đem bán trong khi tỷ lệ ở đây là 79%!
Hay chuyện báo in không được quảng cáo quá 10% diện tích cũng là
một quy định phi lý đã tồn tại từ rất lâu. Lúc đó, các báo đều do Nhà nước bao
cấp, giá bán rất thấp, số trang cố định. Người ta suy nghĩ nếu báo cứ đăng quảng
cáo hết thì lấy diện tích đâu để đăng tin, bài, ảnh hưởng đến chức năng tuyên
truyền của báo chí, làm lãng phí ngân sách nhà nước. Quy định như thế xem ra hợp
lý. Nhưng nay đa phần các báo tự chủ tài chính, lời ăn lỗ chịu, nếu cứ quảng
cáo nhiều, không có nội dung thì bạn đọc không mua, không biết vì sao vẫn quy định,
can thiệp vào tỷ lệ quảng cáo một cách máy móc. Từ đó mới hình thành cách trình bày báo rất đặc trưng cho Việt Nam là
mọi quảng cáo dồn vào một tập – việc đầu tiên nhiều người đọc báo làm là tách
nó ra và quẳng vào sọt rác – một sự lãng phí ghê gớm.
Điều đáng nói là những
quy định bất hợp lý nói trên ít khi được thực thi đến nơi đến chốn nên chuyện
vi phạm vẫn diễn ra thường xuyên, chỉ khi cần mới có chuyện phạt vạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét