Nhật báo New
York Times hôm thứ Tư ngày 24/4 vừa đăng
một bài báo về lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong tình hình khó khăn hiện nay.
Dưới tiêu đề ‘Những lúc khó khăn cũng là lúc bất
đồng và trấn áp công khai nở rộ ở Việt Nam’, nhà báo Thomas
Fuller của New York Times đã đưa ra quan sát này trong một lần đi tìm
hiểu thực tế mới đây ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhân vật chủ đạo trong bài báo là giáo sư Nguyễn Phước Tương (tức Tương
Lai), cựu cố vấn của hai đời thủ tướng Việt Nam.
Ngoài ra ký giả này cũng đã trao đổi với ông Trương Huy San (tức nhà báo Huy Đức),
một cựu cố vấn khác của thủ tướng là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, cũng như một số nhà quan sát
khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện
nay.
‘Không tin Đảng nữa’
“Trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx,
Engels và Hồ Chí Minh, dấu ấn của một đời trung thành với Đảng Cộng
sản, nhưng ông Nguyễn Phước Tương, 77 tuổi, nói ông không còn tin vào
Đảng nữa”, bài báo bắt đầu
từ tư gia của GS Tương Lai ở ngoại ô thành phố lớn nhất nước.
“Ông Tương, cũng giống như rất nhiều người khác ở Việt
Nam hiện nay, đang lên tiếng phản đối chính quyền mạnh mẽ”.
“Chế độ của chúng tôi là độc tài toàn trị”, ông Tương được dẫn lời nói, “Tôi là người sống trong lòng chế độ – tôi biết tất cả
những khiếm khuyết, những sai lầm sự suy thoái của nó”.
Theo Fuller thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt
với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của
nền kinh tế và nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa một bên là những
người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của chủ
nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo và một bên là những người
kêu gọi một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư
bản.
Tuy nhiên quan trọng nhất là Đảng đang đối phó với một xã hội
thông tin ngày càng rộng mở và khán giả ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi mà có nhiều tin tức và ý
kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền
của truyền thông Nhà nước.
Bài báo dẫn nhận định của ông Carlyle A. Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc, một trong
những học giả nước ngoài hàng đầu về Việt Nam, cho rằng giờ đây sự
chỉ trích Đảng đã ‘bùng nổ trên toàn xã hội’.
Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng trải qua kể từ khi Đảng này
thống nhất đất nước 38 năm trước đây như cuộc chiến với Trung Quốc và
Campuchia, khủng hoảng tài chính và chia rẽ nội bộ.
Cũng theo quan sát của ông Thayer thì ‘bất đồng nở
rộ nhưng đồng thời sự đàn áp cũng gia tăng’.
‘Bi quan sâu sắc’
“Có thêm nhiều người muốn bày tỏ chính kiến phê phán
chính phủ của mình hơn trước và những gì họ chỉ trích cũng nghiêm
trọng hơn”, ông Trương Huy San
(tức nhà báo, blogger Huy Đức – tác giả Bên Thắng Cuộc), nói với New
York Times.
Vấn đề đăṭ ra ở đây, theo nhà báo Fuller, là ‘khó
mà hiểu được sự bi quan sâu sắc’ của người dân trên đất nước này nếu
nhìn vào bề mặt của sự tăng trưởng kinh tế.
Theo bài báo này thì nhiều người cho rằng Việt Nam
đang mất phương hướng mặc dù đất nước này có dân số trẻ và làm
việc chăm chỉ.
“Trong vòng 21 năm sống
ở đất nước này tôi chưa bao giờ thấy sự bất mãn với chế độ của
trí thức và doanh nhân lên đến mức độ như hiện nay”, ông Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu
tư Indochina Capital, được dẫn lời nói.
Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân do Ủy ban Kinh tế của
Quốc hội tổ chức hồi đầu tháng Tư năm nay, các diễn giả đã ‘tranh
nhau nói trước micro’, kinh tế gia Lê Đăng Doanh thuật lại với New York
Times.
Ông cho biết nhiều người đã chỉ trích mặc dầu nền
kinh tế cần phải được tái cơ cấu sâu rộng nhưng ‘gần như chẳng ai làm
gì cả’.
“Đó là sự khủng hoảng lòng tin”, ông Doanh được dẫn lời nói, “Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới
mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả”, ông nói.
Bài báo đã nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay.
“Sự tự tin thái quá và các chương trình đầy tham vọng
của ông Dũng lúc đầu giúp ông có người ủng hộ bởi vì ông đã đoạn
tuyệt với khuôn mẫu một cán bộ Đảng xơ cứng” bài báo viết.
Tuy nhiên, sau đó ông làm nhiều người bất mãn với
việc giải tán ban cố vấn vốn là động lực phía sau chương trình cải
cách kinh tế mà ông Tương Lai là một thành viên.
Bên cạnh đó, chính sách kinh tế mang dấu ấn cá nhân
ông Dũng là thúc đẩy thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước theo
kiểu các chaebol của Hàn Quốc, đã đem lại hiệu quả ngược.
Điều hành các tập đoàn này những người thân cận
với Đảng Cộng sản, những người đã biến các tập đoàn thành nhiều
công ty khác nhau mà họ không đủ khả năng điều hành cũng như đầu cơ
trên thị trường chứng khoán và bất động sản.
Hai tập đoàn trong số này đã gần như sụp đổ và
đang đứng bên bờ vực phá sản.
‘Căng thẳng trong Đảng’
Ông Nguyễn Phước Tương nói với New York Times rằng
những khó khăn của nền kinh tế đã khiến cho căng thẳng trong nội bộ
Đảng Cộng sản dâng cao.
Hồi tháng Hai, ông đã tham gia soạn thảo một thư
kiến nghị gửi đến lãnh đạo Đảng Nguyễn Phú Trọng để kêu gọi thay
đổi Hiến pháp theo hướng đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Ông
nói đến nay ông chưa nhận được phản hồi gì cả.
Giờ đây ông đang cảm thấy áp lực thời gian, ông cho
biết. Căn bệnh ung thư của ông, mặc dù đang thuyên giảm, giống như là
sự giải phóng tư tưởng thôi thúc ông phải nói lên điều mà ông cho là
sự thật, ông nói.
“Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại”, ông nói, “Nhưng
nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn”.
Bản điện tử của bài báo này trên trang chủ của New
York Times đã nhận được một số ý kiến phản hồi của độc giả.
Một người ký tên là R. Vasquez đến từ tiểu bang New
Mexico của Hoa Kỳ bình luận:
“Đảng (Cộng sản Việt Nam) đã cạn nhiệt huyết và ý
tưởng. Những người thật sự còn trung thành với lý tưởng cộng sản
giờ cũng đã 70, 80 tuổi... Các thế hệ tiếp nối sẽ thấy ngày càng
khó mà hài hòa giữa những lý luận của các nhà tư tưởng ở châu Âu
vào thế kỷ 19 với nhu cầu và khát vọng của nước Việt Nam trong thế
kỷ 21”.
Còn Party State đến từ thành phố Vancouver của Canada
thì viết:
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần
lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Vấn đề ở
đây là điều gì sẽ xảy ra sau đó? Liệu Việt Nam có trở thành một
chế độ độc tài quân sự hay sẽ có một nhân vật như Hun Sen lên nắm
quyền? Tương lai, tôi sợ rằng, sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện
tại”.
‘Giá đừng phản chiến’
Charles ở Slough, Vương quốc Anh, tự vấn phong trào
phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Độc giả này viết:
“Những người chúng ta đã từng tham gia vào phong trào
phản chiến trong những năm 60 và 70 nên cúi đầu xấu hổ trước người
dân Việt Nam. Với việc ủng hộ phe cộng sản và gây sức ép lên Quốc
hội cắt đứt mọi viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì chúng ta đã góp
phần đảm bảo cho chiến thắng của ông Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta.
Lại nữa, hãy thử nghĩ xem nếu không có cuộc cách mạng
này thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến
tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng
lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không
khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.
Hãy nghĩ xem giờ này Việt Nam sẽ như thế nào nếu họ
trải qua 60 năm thị trường tự do giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan và Singapore. Chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều
và lại không có chết chóc hay tàn phá”.
Tuy nhiên ý kiến này đã bị một công dân mạng khác
có tên là Khang Duong từ Việt Nam phản bác:
“Ông chỉ đọc từ một phía và ông không hiểu gì về Việt
Nam cả. Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẽ tốt hơn nếu không làm cách
mạng. Đất nước của ông bị nước khác tàn phá, người dân của ông mất
hết quyền lực và bị đối xử như súc vật? Miền Nam điêu tàn dưới tay
của một kẻ độc tài. Ngô Đình Diệm không phải do người dân Việt Nam
mà là người Pháp, người Mỹ đưa lên. Nếu Hồ Chí Minh không làm cách
mạng thì cũng sẽ có một cuộc cách mạng khác mà thôi”.