THÁNG CHÍN 15, 2011
Đôi lời: Thời gian gần đây, nhiều người bàn về trí thức. Vậy trí thức là gì? Ai là trí thức? Vai trò của trí thức như thế nào trong xã hội?…Nhận được bản dịch công phu của dịch giả Quốc Trung, Da Vàng blog xin giới thiệu cùng quý độc giả để cùng tìm hiểu, nghiên cứu.
Tác giả: Chức Sa Mộng – Người dịch: Quốc Trung
Về định nghĩa trí thức là gì, theo quan điểm thịnh hành ở các nước, trí thức là chủ thể đã qua đào tạo chuyên ngành, nắm vững kiến thức chuyên môn, lấy tri thức làm thủ pháp mưu sinh, lấy lao động trí óc làm nghề nghiệp.
Hiện nay, giới học thuật Trung Quốc nhìn chung cho rằng, trí thức là người lao động trí óc có trình độ văn hóa tương đối cao, chủ yếu lấy việc sáng tạo, tích lũy, tìm hiểu, truyền bá, quản lí và ứng dụng kiến thức văn hóa khoa học là ngành nghề, được phân bố trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục, kĩ thuật công trình, văn hóa nghệ thuật, y tế…, là chủ thể được Trung Quốc gọi chung là “tầng lớp có thu nhập trung bình”.
Không ít học giả Trung Quốc cho rằng từ “trí thức” (tiếng Hán: tri thức phần tử “知识分子”- ND) được dịch từ tiếng Tây. Giáo sư Diệp Khải Chính ở Khoa xã hội Trường Đại học Đài Loan đã có sự trao đổi khá tường tận về vấn đề này. Theo quan điểm của Diệp Khải Chính, khái niệm “trí thức” bắt nguồn từ Phương Tây. Ở Châu Âu có hai từ có liên quan đến khái niệm “trí thức”, nếu nói theo tiếng Anh tương đối thông dụng hiện giờ thì một là intelligentsia (giới trí thức – ND), hai là intellectual (người trí thức – ND).
Hai từ này lần lượt thuộc Đông Âu và Tây Âu, mang ý nghĩa lịch sử khác nhau.
Từ intelligentsia bắt nguồn từ nước Nga, do nhà văn Nga Boborykin (Petr Dmitrievich Boborykin; 1836-1921 đề xuất vào năm 1860, được dùng để chỉ riêng một nhóm nhân vật đã đưa triết học Đức vào nước Nga.
Ba Lan khi ấy đã có một tầng lớp xã hội mang tính đồng nhất rất cao về mặt văn hóa, cả đặc điểm tâm lí, lối sống, địa vị xã hội lẫn hệ thống giá trị của họ đều mang màu sắc riêng.
Intellectual có nguồn gốc từ nước Pháp, được khởi nguồn từ Vụ án Dreyfus.
Tôi lên án (J’accuse), bài trên báo L’Aurore số ra ngày 13/1/1898
Ngày 13/01/1898, Zola đã viết một bức thư ngỏ gửi Tổng thống với đầu đề “Tôi lên án”, kêu gọi xét xử lại Vụ án Dreyfus vì bị vu cáo. Ngày hôm sau, bức thư ngỏ này đã được đăng trên tờ “Tia sáng”, chủ bút Clémenceau (có lẽ là Georges Clemenceau; 1841-1929 – ND) đã dùng câu “Tuyên ngôn của giới trí thức” (Manifeste des intellectuels) để mô tả nó.

Do hàm nghĩa lịch sử của hai từ trên không giống nhau, cho nên trong tiếng Anh hiện đại thường dùng intellectual để chỉ “người trí thức”, và dùng intelligentsia để chỉ “tầng lớp trí thức”.
Trung Quốc thời cổ đại, các khái niệm gần với hàm nghĩa của “trí thức” là “sĩ” hoặc “sĩ đại phu”.
Ba học phái lớn thời Tiên Tần, là Nho, Mặc, Đạo, mặc dù đều có đạo riêng của mình, nhưng cũng không nằm ngoài sự đại diện cho “đạo” này.
Trái lại, chỗ dựa của họ thường chỉ là “lí tính” hoặc “lương tâm trí thức” cá nhân.
Mặt khác, “đạo” của Phương Tây thời Trung cổ là được kí thác ở Cơ đốc giáo, đó là “đạo” được Thượng đế khải thị; kẻ đại diện cho nó là tăng lữ Giáo hội và nhà thần học – quyền uy tinh thần ngang hàng với quyền uy chính trị thế tục.
về điển tích “Render unto Caesar the things which are Caesar’s, and unto God the things that are God’s”
Vì thế, trí thức Phương Tây thời cận đại không chịu tự nhận mình khởi nguồn từ truyền thống tôn giáo này, bởi vì họ đã không còn tuân thủ nguyên tắc “Cái gì của Caesar thì trả lại cho Caesar, cái gì của Thượng đế thì trả lại cho Thượng đế” nữa, thứ mà họ muốn quản là cái của Caesar.
Xuân Thu Chiến Quốc là một thời đại “lễ băng nhạc hoại”; lễ nhạc đã không xuất từ thiên tử, mà là xuất từ chư hầu, thế nên Khổng Tử mới quở trách là “thiên hạ vô đạo”. Tầng lớp thống trị vừa không thể đảm trách “đạo”, cái gánh “đạo” bèn rơi vào tay “sĩ” được hiểu một cách đúng đắn là “lễ ý”.
Ông nói: “Sĩ trí vu đạo, nhi sỉ ố y ố thực giả, vị túc ư nghị dã”(…). “Luận ngữ” . Lí nhân lại nói: “Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ”(…). Loại “sĩ” mới này (cùng với “Hiến vấn” ở trên) chính là nguyên mẫu trí thức mà chúng ta nói tới.
Sau Khổng Tử, bách gia ý khởi, tuy giữa các “đạo” khác nhau, nhưng về đại thể vẫn đều lấy việc tạo dựng lại trật tự chính trị xã hội làm cái đích cuối cùng. Cho nên, tính cách lịch sử của trí thức Trung Quốc đã chịu sự qui định của truyền thống văn hóa mà mình kế thừa; nếu xét theo kiểu “cái của Xêda”, thì tiếp cận với trí thức Phương Tây thời cận đại; còn nếu xét theo kiểu đại diện cho “đạo”, thì lại tiếp cận với tăng lữ và nhà thần học Phương Tây thời Trung cổ.

Trí thức, nếu xét theo ý nghĩa của Trung Quốc thời cận đại, xuất hiện ở Trung Quốc sau Chiến tranh Nha phiến, chịu sự ảnh hưởng của nền văn minh Phương Tây, đi kèm với việc phế bỏ khoa cử, chấn hưng tân học, thoát thai từ giới sĩ đại phu phong kiến trong quá trình chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến.Họ hoặc là truyền bá tư tưởng mới, kiến thức mới, hoặc là làm các nghiên cứu học thuật thời cận đại, hoặc là mở các xí nghiệp thời cận đại, hoặc là dồn sức vào công cuộc xây dựng hiện đại hóa.
Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu, Chiêm Thiên Hựu… có thể được coi là đại diện cho trí thức thế hệ đầu của Trung Quốc.
Ngày nay, khi chúng ta sử dụng từ “trí thức” thì hàm nghĩa của nó đã khác xa so với “sĩ” của Trung Quốc thời cổ đại, và hoàn toàn khác với cách dùng của Phương Tây, nó thường được dùng để chỉ những người lao động trí óc đã qua học chuyên ngành ở một trình độ nhất định, có kiến thức chuyên môn, làm công việc kĩ thuật chuyên môn đồng thời có chức danh tương ứng.
II. Trí thức điển hình có những đặc tính cơ bản nào
Như vậy có thể nói, đặc tính cơ bản của trí thức là “người lao động trí óc”.
Con người không chỉ là một sự tồn tại mang tính sinh học, mà ngoài những nhu cầu mang tính sinh học ra, anh ta còn có những nhu cầu mang tính tâm lí, tức sự truy cầu ý nghĩa cuộc sống, sự truy cầu giá trị lớn nhất, sự truy cầu tiếp xúc được với thế giới vũ trụ.

Vì thế, chức năng của trí thức chủ yếu mang tính văn hóa, những làm có liên quan đến các hoạt động mang tính văn hóa như giá trị, quan niệm, kí hiệu…, nhằm thiết lập một hệ thống ý nghĩa mang tính văn hóa cho xã hội.
Xét từ góc độ này, trí thức cần là “chuyên gia về văn hóa”, chứ không chỉ là “người lao động trí óc” chung chung, hoặc trí thức là một bộ phận người quan tâm đến đồng thời tạo ra, làm sáng tỏ và truyền bá các giá trị văn hóa trong số “người lao động trí óc”.
Đây có lẽ là hình ảnh của người trí thức điển hình nhất trên thế giới từ xưa đến nay. Nhờ hình ảnh này mà anh ta được đánh đồng một cách lãng mạn với lương tâm của xã hội.
K.Marx và F.Engels được suy tôn là “người thầy dẫn dắt cách mạng vô sản”, song họ lại không phải xuất thân từ giai cấp vô sản, thành phần xã hội thực chất của họ là trí thức. Qua đây có thể thấy, trí thức còn là lực lượng tự phê phán và là người có tiếng nói đại diện cho quần chúng trong xã hội.
Xét về điểm này, trí thức còn có chiều hướng lánh xa giới quyền uy chính trị.
Bởi trí thức không chỉ nắm tri thức mà không chiếm hữu tư liệu sản xuất, cho nên sẽ không chiếm hữu một vị trí độc lập trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, không phải là một giai cấp độc lập, trong một vài thời kì lịch sử nhất định của xã hội thậm chí còn không gắn kết thực sự với bất cứ một giai cấp hoặc tầng lớp nào trong xã hội.
Mao Trạch Đông từng ví trí thức của nước Trung Quốc thực dân nửa phong kiến với lông mao, cho là họ phụ bám trên da bọn đế quốc, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản quan liêu, giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp tiểu tư sản, cách mạng dân chủ đã lột sạch 3 tấm da đầu, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa lột sạch 2 tấm da sau. “Da đã bị lột, lông còn biết bám vào đâu”, kết quả là chỉ còn biết bám vào thân giai cấp vô sản.
Karl Mannheim, nhà sáng lập môn xã hội học tri thức thì cho rằng, một đặc tính cơ bản của trí thức là tự do bay bổng (free-floating).Xét từ điểm này, bản thân trí thức chẳng phải là một giai cấp và tầng lớp xã hội độc lập, cũng chẳng gắn kết thực sự với gia cấp hoặc tầng lớp nào khác trong xã hội, mà là một tập hợp người tương đối tự do bay bổng trong xã hội.
Ba: Có ý thức về trách nhiệm xã hội mạnh mẽ, có thái độ phê phán đối với chính trị đương thời, thường tỏ ra không hài lòng với hiện trạng.
Đặc tính thứ ba, sau khi qua Michael Confino tổng hợp ý kiến của các nhà khoa học, đã được qui tụ lại thành 5 điểm sau:1) Quan tâm sâu sắc đến tất cả mọi vấn đề thuộc lợi ích chung – bao gồm những vấn đề về các phương diện xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị;2) Tầng lớp này thường tự có cảm giác mình mắc tội, vì cho rằng việc giải quyết quốc gia đại sự và những vấn đề nói trên đều có trách nhiệm cá nhân của họ;3) Có thiên hướng xem tất cả những vấn đề về chính trị, xã hội là thuộc vấn đề đạo đức;4) Bất luận là về mặt tư tưởng hay về mặt đời sống, những người thuộc tầng lớp này đều cảm thấy mình có nghĩa vụ tìm ra lời giải đáp mang tính logic cuối cùng cho mọi vấn đề;5) Họ tin chắc rằng hiện trạng xã hội bất hợp lí, cần phải thay đổi.
Năm điểm do M.Confino tổng hợp về đại thể là phù hợp với truyền thống trí thức Trung Quốc, nhất là về mặt tinh thần trách nhiệm và quan tâm thế sự. Từ “nhân dĩ vi kỉ nhiệm” của Tăng Sâm đến “dĩ thiên hạ vi kỉ nhiệm” của Phạm Trọng Yêm đều hiển thị điều trí thức Trung Quốc có tinh thần trách nhiệm sâu sắc đối với những vấn đề thuộc các phương diện đạo đức, chính trị, xã hội.
Đặng Thác bèn viết một thiên tạp văn “Sự sự quan tâm” trong “Yến Sơn dạ thoại”. Ông còn viết trong bài thơ có tên “Ca xướng Thái Hồ”: “Đông Lâm giảng học kế qui sơn, sự sự quan tâm thiên địa gian. Mạc vị thư sinh không nghị luận, đầu lô trịch ngoại huyết ban ban”. Đây chính là minh chứng cho sự diên miên bất tuyệt của truyền thống trí thức Trung Quốc.
Nhà tư tưởng (philosopher) trong phong trào Khai sáng ở Tây Âu dại thể có thể đại diện cho nguyên hình trí thức Phương Tây; nguồn gốc xa xưa intellegentsia của nước Nga cũng chỉ có thể tính ngược dòng đến thế kỉ 18.
So với Phương Tây, truyền thống trí thức Trung Quốc có thể được coi là xa xưa hơn, ít nhất cũng được tính từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, đã có lịch sử hơn 2000 năm, và dường như có thể nói là chưa từng bị gián đoạn.
Vì thế, “sĩ” của Trung Quốc cổ đại về mặt truy cầu tinh thần trước sau vẫn không quên được chính trị, cho dù là Lão Tử hay Trang Tử, thì khi viết sách dạy học vẫn hết sức hào hứng với chính trị.
Dù “sĩ” của Trung Quốc cũng coi trọng “hồng nghị”, coi trọng “dĩ thiên hạ vi kỉ nhiệm”, nhưng cũng chỉ khi ở vào thuận cảnh thì mới thể hiện được tinh thần tiến thủ tích cực của Nho gia, còn một khi đã bị rơi vào nghịch cảnh, thì lại chuyển hướng Lão Trang, lui về điền viên, tức điều gọi là “Nho Đạo hỗ bổ”.
III. Trong đời sống hiện thực, trí thức trên thực tế chỉ những người nào
Căn cứ theo các đặc tính của trí thức, người trí thức điển hình bao gồm nhà triết học, nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ, nhạc sĩ…Ở đây, trí thức không phải là người lao động trí óc được hiểu theo cách thông thường, mà là chỉ một bộ phận người quan tâm đến các giá trị văn hóa của nhân loại, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội nằm trong số người lao động trí óc, về đại thể tương đương với “nhà tư tưởng”.
Nếu một nhà khoa học kiệt xuất vắt kiệt cuộc đời mình, không từ gian khổ để phát minh ra bom nguyên tử, điểm xuyết thêm một nội dung quan trọng cho văn hóa nhân loại, song trong quá trình phát minh lại không hề tìm hiểu xem hậu quả có thể đem lại của bom nguyên tử là gì, thì nhà khoa học như thế tuy là nhà sáng chế, nhưng lại không thuộc về trí thức điển hình.
Do sự phân công xã hội, chức năng xã hội của mọi người ngày càng đi vào chuyên sâu hơn, khiến cho mối quan hệ giữa con người với xã hội có chiều hướng lấy mối quan hệ nghề nghiệp đơn thuần làm cốt lõi, sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã đem lại tính chuyên biệt hóa ngành nghề.
Chúng ta có được những chuyên gia lão luyện, họ có thể mang lại lối sống tiện nghi hơn, đời sống vật chất thịnh vượng hơn cho mọi người, nhưng có thể nhận thức xã hội của họ lại nông cạn, sự hiểu biết về sinh mệnh có thể còn đơn thuần; điều mà họ quan tâm là làm sao để phát huy được tài năng của mình vào chuyên môn, và thường xem nhẹ nội dung văn hóa của những thứ họ sáng tạo ra.
Vì thế, một nhà khoa học hoặc một học giả không nhất thiết là trí thức, trừ phi anh ta quan tâm đến những vấn đề lớn liên quan đến xã hội và đến cả nhân loại (như chiến tranh, nghèo đói, phát triển bền vững…); một nhà viết tiểu thuyết hoặc đạo diễn điện ảnh cũng không nhất thiết là trí thức, trừ phi những thứ anh ta viết ra, đạo diễn không đơn thuần là mang tính giải trí, mà hoặc mờ hoặc tỏ có đề cập đến những vấn đề xã hội đã tương đối sâu rộng.
Đồng thời, trí thức có một hàm nghĩa riêng biệt được xem là giới thuyết căn bản, đó là trí thức là một nhà phê phán và là người phát ngôn có quan tâm đến xã hội và thời đại mà mình đang ở vào.
Như người làm công tác khoa học kỹ thuật, người làm công tác nghệ thuật, giáo viên, bác sĩ…” Theo mục “Trí thức” trong “Giản minh triết học từ điển” do Rosenthal và Eugene chủ biên, trí thức là “tầng lớp xã hội được cấu thành bởi những người lao động trí óc”. “Kĩ sư, công trình sư cùng đại diện của các nhân viên kĩ thuật khác, bác sĩ, luật sư, người làm công tác nghệ thuật, giáo viên, người làm công tác khoa học và phần lớn công chức đều thuộc về tầng lớp xã hội này”.
Trong các công việc thực tế có liên quan đến trí thức, khái niệm được sử dụng ở các bộ phận không giống nhau, bộ phận tổ chức gọi là “cán bộ khoa học kĩ thuật”, bộ phận nhân sự gọi là “nhân tài”.
Việc phân chia ranh giới cho khái niệm ở các bộ phận cũng thường là xác định dựa theo phạm vi công tác của mình, chẳng hạn Vụ Công tác mặt trận giới định đối tượng làm công việc loại trí thức của mình là trí thức ngoài Đảng có tính đại diện, có tác động ảnh hưởng.
Do việc thực hiện tri thức hóa, chuyên môn hóa đã được tiến hành từ Hội nghị toàn thể Trung ương của Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 11 khóa 3 mà một bộ phận tương đối lớn trong đội ngũ này hiện đã có trình độ đại học chuyên ngành trở lên, số thạc sĩ, tiến sĩ cũng không phải là ít.
Song, trí thức mà chúng ta nói đến có một đặc tính quan trọng, đó là làm công tác chuyên môn kĩ thuật, tức nội dung cốt lõi trong công việc của trí thức là sáng tạo, tìm hiểu, truyền bá hoặc vận dụng tri thức.
Như vậy có thể thấy, công chức là người chế định và người thực hiện chính sách, bản thân họ dĩ nhiên không thể trở thành đối tượng của chính sách.
Vì thế, nếu xét theo tình hình của Trung Quốc hiện nay, thì tất cả những cán bộ được xếp vào loại công chức hoặc được quản lí theo kiểu công chức trong các cơ quan chính đảng, bất luận trình độ cao thấp, và cũng bất luận trong công việc phải động chạm đến bao nhiêu kiến thức chuyên môn, đều không nằm trong phạm vi trí thức.
Nguyên văn: 什么是知识分子?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét