Nhà báo Nguyễn Vạn Phú đang trả lời câu hỏi tại buổi giao
lưu trực tuyến
Trường hợp 1: Doanh nghiệp A. Viết một dự án rất thống thiết, xin địa phương cấp đất để xây nhà máy, hứa hẹn đem lại nhiều công ăn việc làm cho địa phương. Sau khi được cấp đất, doanh nghiệp này bèn xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất, dùng phần lớn diện tích để “phân lô bán nền”. Người dân trước đó bị giải tỏa nhường đất để xây nhà máy nay khiếu kiện liên miên vì không chịu nổi sự bất công mất đất cho người khác làm giàu.
Trường
hợp 2: Doanh nghiệp B. Được cấp một mảnh đất
với tổng giá trị 80 tỷ đồng. Ngay sau đó một thời gian doanh nghiệp này sang
nhượng mảnh đất này cho một doanh nghiệp khác, có dây mơ rễ má với nhau, với
giá được kê khống lên thành gần 600 tỷ đồng. Mảnh đất được dùng để thế chấp,
vay tiền ở ngân hàng đến 300 tỷ đồng. Dù đất đóng băng, hai doanh nghiệp này
vẫn đã hưởng những khoản lời khổng lồ còn ngân hàng ôm một cục nợ xấu.
Trường
hợp 3: Công ty địa ốc C. Lập dự án bất động
sản, chi phí ban đầu bỏ ra chừng 100 tỷ đồng nhưng nhờ cơn sốt đất đai mấy năm
trước định giá dự án đến 500 tỷ đồng. Bản thân dự án được thế chấp để vay vốn
ngân hàng được đâu 300 tỷ đồng. Công ty này thu hồi ngay 100 tỷ đồng chi phí
ban đầu, bỏ túi thêm 100 tỷ đồng tiền xem là lãi, còn 100 tỷ đồng đang xây dựng
dở dang. Nay thị trường suy sụp, công ty bỏ mặc dự án cho ngân hàng; ngân hàng
không thu hồi được nợ, cũng không dám xem nó là xấu vì như thế phải trích lập
dự phòng rủi ro nhiều. Họ cứ tìm cách đảo nợ, nuôi dự án chờ bất động sản được
cứu.
…
Đây chỉ là một vài ví dụ minh họa cho muôn vàn
bi hài kịch mà nền kinh tế và người dân đang gánh chịu, tất cả cũng vì đất mà
ra. Mặc dù những trường hợp này được công khai trên báo chí trong thời gian gần
đây, thiết tưởng nó là loại chuyện ai cũng biết từ lâu. Vì sao không ai can
thiệp?
Với
địa phương, tiền sử dụng đất thu từ những dự án trên địa
bàn là nguồn thu ngân sách béo bở, dễ kiếm, dễ thu, chiếm một tỷ trọng lớn
trong ngân sách, không ai dại gì bỏ qua. Có dự án, có ký giấy tờ tức là có
xin-cho, một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng được khích lệ phát triển ở khắp mọi
nơi.
Với
ngân hàng, những năm chạy đua tăng trưởng tín dụng,
nhất là những năm kích cầu bù lãi suất, họ không dại gì không cho vay nhất là
khi cứ tưởng nắm chắc thế chấp là đất đai đang lên giá từng ngày là nắm đằng
chuôi. Không loại trừ tín dụng ngân hàng còn đổ vào các công ty địa ốc sân sau
của một số cổ đông lớn bất kể thiệt hại trong tương lai cho ngân hàng. Cuộc đua
này làm nảy sinh tình trạng sở hữu chéo giờ vẫn còn là mớ bòng bong.
Với
doanh nghiệp, một khi mức lợi nhuận từ hoạt động truyền
thống không bao nhiêu, lại nóng ruột vì đồng nghiệp lao vào địa ốc đang thắng
lớn, rất dễ bị cám dỗ đổ vốn vào địa ốc. Đây là một canh bạc đang làm nhiều
doanh nghiệp thua trắng khi đồng tiền lãi ít ỏi của hoạt động chính phải gánh
chi phí tài chính nặng nề từ những dự án địa ốc dang dở.
Chừng đó thực tế cũng đủ để mọi người phải
thức tỉnh để ít nhất lần sửa Luật Đất đai sắp tới phải cân nhắc những điều
khoản nhằm hạn chế tình trạng lợi dụng đất để thao túng nhiều hoạt động kinh
tế.
Trước tiên, không ít thì nhiều, cố tình hay
ngẫu nhiên, chính những bên tham gia, gồm doanh nghiệp, ngân hàng và chính
quyền địa phương đã thay nhau đẩy giá đất lên cao, tạo ra bong bóng bất động
sản. Cứ tưởng giá cao giúp thu được nhiều thuế, tăng lợi nhuận nhưng thật ra
rốt cuộc giá cao gây thiệt hại cho tất cả. Chi phí làm ăn ở Việt Nam
ngày càng lớn một phần do giá đất tăng vọt trong nhiều năm trước, không nhà đầu
tư nghiêm túc nào chịu nổi.
Chuyện đó cũng chưa quan trọng bằng số phận
của những người dân có đất bị thu hồi, đang chịu phần thiệt thòi nhiều nhất,
đang cầm đơn đi khiếu kiện khắp nơi. Đây là nơi chất chứa mọi sự bất công của
một thị trường méo mó, nhân danh phát triển để hưởng lợi trên lưng người dân.
Áp lực xã hội, sự đổ vỡ về văn hóa, niềm tin đang là vấn đề gay gắt nhưng
thường bị bỏ qua.
Phải sửa luật sao cho việc thu hồi đất của
người dân là chuyện “vạn bất đắc dĩ” và không được dùng hai chữ “thu hồi”. Nếu
có trưng mua đất của dân thì phải thương lượng với họ một cách sòng phẳng,
quyền lợi của người có đất bị trưng mua phải được bảo vệ một cách chặt chẽ.
Luật Đất đai 2003 quy định bốn trường hợp cụ thể Nhà nước “thu hồi” đất để sử
dụng vào mục đích phát triển kinh tế gồm: “Đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ”
nhưng thực tế chính quyền địa phương nhiều lúc cứ mạnh tay thu hồi đất của
dân chỉ để trao cho một doanh nghiệp nào đó. Hạn chế quyền thu
hồi đất của chính quyền cơ sở để luật pháp khỏi bị lợi dụng là một bước khởi
đầu cần thiết.
Cao hơn hết, nếu đất
có chủ thật sự, tức người dân được trao quyền sở hữu mảnh đất họ đang sử dụng
lâu dài và hợp pháp, phần lớn các câu chuyện lợi dụng đất nói trên đã không thể
xảy ra. Ngược lại, lúc người dân được làm chủ thật sự mảnh đất của
họ, đất sẽ sản sinh sự giàu có cho xã hội tương tự câu chuyện khoán 10 năm xưa.
Chúng ta đã không thừa nhận “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”
cho nền kinh tế thì tại sao không áp dụng tinh thần này cho người nông dân vì
đất chính là tư liệu sản xuất chủ yếu của họ. Hiến pháp đang được sửa đổi, bổ
sung. Tại sao không nhân cơ hội này sửa điều 57 để không nói đất đai “là tài
sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” nữa mà thừa
nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai, gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét