TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
Thế giới hiện đại coi hiến pháp là nền
tảng pháp lý cho mọi nhà nước tồn tại và vận hành, bất kể là nhà nước gì, hiển
nhiên như bất cứ ngôi nhà nào cũng phải có nền móng. Tới lượt nền móng lại được
xây dựng trên nền tảng địa chất nào đó; hiến pháp nước nào cũng vậy, được xây dựng
trên những nền tảng nguyên lý nhất định quyết định bản chất hiến pháp đó, được
khoa học pháp lý dùng làm tiêu thức phân loại ngót 200 quốc gia trên thế giới đặc
trưng bởi hiến pháp quốc gia họ. Ở các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan, Iran, Mauretanien, Sudan, Pakistan…, hiến pháp đều dựa
trên nền tảng kinh Koran. Điển hình như Hiến pháp Iran năm 1979, sửa toàn diện
lần cuối năm 1989, gồm 177 điều, mở đầu: “Hiến pháp Cộng hòa Hồi giáo Iran phấn
đấu tạo dựng các định chế văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế Iran theo các
nguyên tắc cơ bản và quy ước đạo Hồi; nó phù hợp với tâm nguyện của cộng đồng Hồi
giáo”. Bản chất hiến pháp chính là bản chất mối quan hệ qua lại giữa nhà nước
và người dân do nó điều chỉnh; ở các quốc gia Hồi giáo trên, mối quan hệ đó thừa
nhận ba chủ thể, với vai trò lãnh đạo tinh thần của giáo chủ, nhà nước nhân
danh Hồi giáo quyết định trực tiếp mọi hoạt động văn hóa xã hội chính trị kinh
tế, và người dân có bổn phận chấp hành, được bảo đảm bằng tín điều Hồi giáo,
kinh Koran. Chính trị học phân loại những nhà nước quyết định trực tiếp mọi mặt
hoạt động của người dân thuộc toàn trị, luôn phải phục tùng mệnh lệnh của một
hoặc một nhóm người đứng đầu là độc tài; từ đó các quốc gia Hồi giáo trên bị tạp
chí The Economist xếp chỉ số thứ hạng dân chủ dưới mức trung bình, đa phần thuộc
nhóm chính thể chuyên chế.
Khác các quốc gia trên, nền tảng Hiến
pháp Mỹ chỉ thừa nhận hai chủ thể, theo nguyên lý, người dân chứ không phải một
hay một nhóm người hay bất cứ nhân danh gì, là chủ nhân nhà nước, có toàn quyền
định đoạt nó, chứ không phải ngược lại; đảng phái, tôn giáo, tổ chức dân sự đều
nằm trong phạm trù nhân dân chứ không phải trên hay ngoài nhân dân càng không
phải nhà nước; được Đại hội Đại biểu 13 tiểu bang đưa vào tuyên ngôn độc lập
trước đó: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển
nhiên rằng, tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền đó, chính phủ lập
ra được trao quyền lực chính đáng dựa trên ý chí nhân dân; bất cứ lúc nào nếu
chính quyền phá vỡ những mục tiêu trên, nhân dân đều có quyền thay đổi hoặc loại
bỏ chính quyền đó lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc,
tổ chức thực thi tốt nhất nhằm phục vụ cho hạnh phúc người dân”.
Nguyên lý trên được Hiến pháp Mỹ khẳng định tiếp ở lời mở đầu: “Nhằm hoàn thiện Hợp Chúng Quốc, thực hiện quyền
bình đẳng, bảo đảm ổn định xã hội, quan tâm bảo vệ đất nước, thúc đẩy lợi ích
chung, gìn giữ tự do cho chính mình và thế hệ con cháu mai sau, nhân dân Mỹ lập
nên bản Hiến pháp này cho nhà nước Hoa Kỳ”. Tức người dân định ra hiến pháp trao quyền lực cho nhà nước thực
thi ý chí họ, chứ không phải để cai trị mình – một dấu hiệu bản chất của hiến
pháp dân chủ. Hệ dẫn, phúc quyết được chính trị học coi là một dấu hiệu
bắt buộc của một nhà nước dân chủ, bảo đảm tính chính danh cho nó, chứ nhà nước
không phải vua chúa nghiễm nhiên có quyền lực; được Hiến pháp ta năm 1946 quy định
thành văn, hoặc nhiều quốc gia khác mặc định, nghĩa là tự động thực hiện không
cần viết vào hiến pháp; cũng giải thích cho thực tế, tại sao Hiến pháp mới Ai Cập
trưng cầu dân ý vừa qua bị biểu tình chống kịch liệt, bởi thiên về Hồi giáo,
gây lép vế cho những tôn giáo khác; tức không xuất phát từ ý chí toàn bộ tầng lớp
nhân dân.
Nguyên lý dân chủ trên có thể tìm thấy
ở nhiều quốc gia, như Hiến pháp Liên bang Nga 1993 được thể hiện ở câu mở đầu:
“Nhằm khẳng định tự do và quyền con người, ổn định và hòa hợp, gìn giữ thống nhất
đất nước, xuất phát từ những nguyên tắc bình đẳng, tự chủ của người dân, tự hào
với các bậc tiền nhân đã trao chúng ta tình yêu và ý thức đối với tổ quốc, tin
tưởng vào bình đẳng bác ái, giữ vững chủ quyền đất nước, quyết tâm bảo vệ nền tảng
dân chủ, phấn đấu vì một nước Nga hạnh phúc nở hoa, với trách nhiệm trước quê
hương, mọi thế hệ, là một phần của cộng đồng thế giới, nhân dân đa sắc tộc Liên
bang Nga số phận chung đã liên kết nhau trên cùng mảnh đất làm ra bản Hiến pháp
này cho nhà nước Nga”.
Rút bài học từ trang sử đen tối nhất
gây ra bởi chế độ Phát xít nhân danh ưu việt đưa dân tộc Đức lên vị trí thượng
đẳng thống trị thế giới, nguyên lý dân chủ trên được Hiến pháp Đức năm 1946 thể
hiện chi tiết tại Điều 20: “(1) Cộng hòa
Liên bang Đức là nhà nước dân chủ và xã hội. (2) Tất cả quyền lực nhà nước đều
từ nhân dân. Nó được nhân dân thực thi thông qua bầu cử và trưng cầu dân ý, và
bằng các cơ quan chuyên về lập pháp hành pháp và tư pháp. (3) Lập pháp chịu
ràng buộc bởi hiến pháp, hành pháp và tư pháp bởi luật và các chuẩn mực luật định.
(4) Bất cứ ai có hành vi vi phạm những nguyên tắc trên, mọi người Đức đều có
quyền chống lại, nếu các biện pháp khác đều không thể”. Ở đây nguyên
lý dân chủ đã được biến thành quy phạm, tức những “chuẩn mực thước đo quy tắc xử
sự, đong đo đếm được”, như tại điểm (1): nhà nước họ là nhà nước dân chủ và xã
hội; tại điểm (2), người dân bầu cử và phúc quyết; tại điểm (3): mọi cơ quan
nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; tại điểm (4): nếu xảy ra vi phạm
những nguyên tắc trên người dân có quyền chống lại, một khi cơ quan nhà nước
không, hoặc không thể giải quyết.
Phạm trù nhà nước “dân chủ và xã hội”
quy định tại điểm (1), tương tự như phạm trù nhà nước “xã hội chủ nghĩa”, hay
nhà nước “cộng hòa hồi giáo”, được dùng chủ yếu trong khoa học chính trị, chỉ
có thể phân biệt thông qua nhận thức về nội hàm và ngoại diên của chúng. Mà đã
là nhận thức thì mang tính chủ quan, không phải những quy phạm “thước đo chuẩn
mực cân đong đo đếm được” dùng trong các văn bản luật. Để khắc phục bất cập đó,
Tòa án Hiến pháp họ có chức năng giải thích Hiến pháp, lượng hóa phạm trù, khái
niệm, thành những quy phạm, buộc cơ quan quyền lực nhà nước không thể làm theo
nhận thức chủ quan của mình chệch ra khỏi phạm trù dân chủ, xã hội (sẽ được bàn
đến trong chuyên đề Tòa án Hiến pháp). Điểm (4) hàm chứa nguyên lý: người dân
là chủ nhân được quyền làm tất cả đối với nhà nước (trừ những điều luật pháp cấm);
họ có quyền can thiệp từ những hành xử thường nhật của chính quyền cho tới loại
bỏ nó như Hiến pháp Mỹ ghi nhận. Cách thập niên trước, lúc tệ nạn bán thuốc lá
lậu lan tràn Đông Đức mới tái thống nhất, tại Leipzig một đội cảnh sát chặn hai
đầu một cầu vượt dưới là đường ô tô chạy ken kín, nhằm bắt gọn mấy người Việt
bán thuốc lá lậu cho khách qua cầu trên đó, lập tức bị dân chúng đi đường quây
cảnh sát lại giải tỏa cho nạn nhân, đòi đưa cảnh sát ra tòa, bởi hành vi cảnh
sát có thể dẫn tới bức tử họ liều chết nhảy xuống đường. Năm 2011, dưới áp lực của dân chúng truyền thông phản đối kịch
liệt đòi miễn nhiệm, bị Quốc hội điều trần, Bộ trưởng Nội vụ tiểu bang
Niedersachsen đã phải cho đón trở lại Đức một gia đình người Việt hai con đã sống
ở Đức 20 năm bị trục xuất về nước vốn đúng luật được tòa phán quyết; chỉ vì người
dân cho rằng cơ quan nhà nước (kể cả tòa án) đã hành xử vô nhân đạo không phù hợp
bản chất dân chủ nhà nước họ được hiến định. Nói nhà nước của dân do dân vì dân
được hiến định phải có giá trị trên thực tế như vậy.
Thụy Điển là Vương quốc được xếp hạng
dân chủ số 1 thế giới, mặc dù trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân thừa
nhận chủ thể thứ ba là vua truyền ngôi nhưng chỉ dưới dạng biểu tượng quốc gia;
nguyên lý “tất cả quyền lực nhà nước đều từ nhân dân” được hiến pháp họ quy phạm
hóa chi tiết hơn nữa tại điều 1: “Quyền lực người dân Thụy Điển được hình thành
từ tập hợp các ý kiến biểu đạt tự do, quyền biểu quyết ngang nhau, nhà nước
trung ương và cơ quan hành chính địa phương phải biến thành hiện thực”. Chứ không phải cầm quyền muốn làm gì thì làm, cho dù với động cơ
mang lại hạnh phúc cho người dân tốt đẹp tới mấy. Tại điều 2, mục đích
vì dân của nhà nước, cũng được quy phạm hóa: “Cuộc sống văn hóa, kinh tế, việc
riêng của mỗi một người (chứ không phải nhân dân chung chung – ND) là mục đích
cao nhất trong hành xử hàng ngày của cơ quan nhà nước”; giải thích cho thực tế ở
họ bất cứ quyết định nào của chính quyền đối với bất kỳ người dân nào đều phải
ghi rõ người dân có quyền chống lại, hướng dẫn thủ tục thậm chí trợ cấp cả chi
phí khiếu kiện đi lại luật sư nếu không đủ tài chính; chính quyền phải giải quyết
trong thời hạn luật định, quá hạn hoặc sai sẽ bị chế tài. Nói tuân thủ hiến
pháp, không có nghĩa nhắm vào nhân dân mà nhằm vào nhà nước khi thực thi quyền
lực như vậy.
Cũng thừa nhận 3 chủ thể, ở Đan Mạch
gồm vua, nhà nước và nhân dân, nhưng nước họ đạt chỉ số thứ hạng dân chủ cao thứ
5 thế giới chính nhờ phân định vai trò độc lập trong bộ máy nhà nước, để bảo đảm
người dân thực sự là chủ nhân đất nước; điều §3 Hiến pháp năm 1953, quy định:
“Quốc hội cùng Vua giữ vai trò lập pháp”, “Vua giữ chức năng hành pháp” nhưng “tòa
án đảm bảo chức năng tư pháp độc lập”. Chức năng hành pháp lại được Điều §13
phân định “Vua không thể truy cứu trách nhiệm, bất khả xâm phạm”, nhưng “các bộ
trưởng phải chịu trách nhiệm đối với điều hành của chính phủ bằng một bộ luật”.
Nghĩa là bất cứ quan chức nào sai phạm đều bị chế tài, không thể đổ cho Vua.
Hiến pháp Liên Xô 1977 sửa lần cuối
năm 1990 được xây dựng dựa trên nền tảng “nguyên lý Chủ nghĩa Xã hội”, “học
thuyết chủ nghĩa cộng sản”, với 3 chủ thể phù hợp nguyên lý đó, khái quát trong
lời mở đầu: “Cách mạng tháng 10 đã tạo dựng được nền chuyên chính vô sản, lập
ra nhà nước kiểu mới Xô Viết là công cụ chính bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng
chủ nghĩa xã hội”, “đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên phong của
nhân dân”. “Các nước Cộng hòa Liên Xô huy động lực lượng và khả năng nhân dân
xây dựng nó”.
Nền tảng nguyên lý trên cũng được phản
ảnh trong phần mở đầu Hiến pháp Trung Quốc năm 1982, sửa đổi ngày 14.3.2004,
cũng với 3 chủ thể: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được dẫn dắt
bởi chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, học thuyết Đăng Tiểu Bình, và
thuyết Ba Đại diện, quần chúng nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiếp tục giữ vững
chuyên chính vô sản, trên con đường Xã hội Chủ nghĩa… biến Trung Quốc thành một
nước xã hội chủ nghĩa, dân chủ và hạnh phúc”.
Nền tảng Hiến pháp nước ta năm 1946,
có thể so sánh với Hiến pháp Hoa kỳ, khi bản Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 làm nền
tảng cho nó, được mở đầu trích từ Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ: “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Mối quan hệ giữa nhà nước có chức năng thực thi quyền lực dân trao
theo ý chí họ, và người dân có quyền loại bỏ chính quyền cũ, lập mới trong nền
tảng Hiến pháp Mỹ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích đơn giản mộc mạc cho
người dân dễ hiểu, khi bàn về nó: “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông
viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến
nữa”.
Vấn đề chỉ còn nằm ở cơ chế nào để thực
hiện nguyên lý đó, chính là nhiệm vụ các điều khoản trong hiến
pháp phải giải quyết, chứ không thể trông chờ vào nhận thức đạo đức
cá nhân người hành xử.
So với Hiến pháp gốc 1992 có 12
chương, 147 điều, Dự thảo sửa đổi ở ta hiện nay chỉ còn 11 chương, 124 điều; giảm
1 chương, bớt 23 điều, trong đó sửa 99 điều, bổ sung mới 11 điều và chỉ giữ lại
nguyên vẹn 14 điều, tức còn lại chưa tới 10% hành văn
hiến pháp cũ, nghĩa là sửa đổi toàn diện, có ý nghĩa như thay mới. Vì vậy,
tính chất và lý do sửa đổi hoàn toàn khác với sửa một vài điều như Hiến pháp Mỹ
hay Đức do họ nếu không sửa, luật ban hành liên quan sẽ bị bác bỏ, vốn ở ta
chưa bao giờ xảy ra, để phải sửa như họ. Một bản hiến
pháp chỉ được coi là thay mới một khi thay đổi nền tảng nguyên lý đẻ ra nó,
nếu không hoặc các điều khoản sửa đổi sẽ xa rời nền tảng nguyên lý cũ, hoặc chứng
tỏ nền tảng cũ bất định, các điều khoản xây dựng trên nó sửa thế nào cũng được.
Và cũng chỉ khi xác định được nguyên lý nền tảng, lấy nó làm thước đo mới có thể
đánh giá 124 điều khoản xây dựng từ đó là đúng hay sai, nếu không hoặc như “đẽo
cày giữa đường” hoặc như “thầy bói xem voi”.
Vậy Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ta hiện
nay dựa trên nền tảng nguyên lý nào? Nguyên lý đó đã thực đúng xuất phát từ ý
chí nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân? Thuộc dạng hiến pháp quốc gia nào
nêu trên, hay hoàn toàn khác biệt họ, hay đã chắt lọc được mọi tinh túy từ họ ?
Bởi nhân loại ngày nay sống trong thời đại hội nhập toàn cầu lấy thế giới làm
thước đo; Việt Nam quan hệ với mọi quốc gia trên thế giới luôn giao thoa với hiến
pháp họ; chưa nói “một bộ phận không thể tách rời dân tộc Việt Nam” chiếm tới
1/20 người Việt, lưu trú khắp thế giới do hiến pháp các quốc gia khác điều chỉnh;
đồng nghĩa con người Việt Nam sống với nhiều hiến pháp khác nhau, chứ không phải
một! Có thể phân tích 124 điều khoản Dự thảo để xác định trở lại nền tảng
nguyên lý xây dựng nên nó, trả lời cho các câu hỏi trên.
N. S. P.
(Bài gốc của tác giả, đã đăng
trên tạp
chí Tia sáng)
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét