Nhãn

22 tháng 1, 2013

655. Minh Diện: tả chân tứ trụ 4 - nguyễn tấn dũng - KỲ VỌNG VÀ THẤT VỌNG



Ngày 16-5-2006 trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 11, Thủ tướng Phan Văn Khải từ nhiệm trước một năm, nhường ghế cho Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm mình. Hơn một tháng sau, ngày 27-6-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành tân Thủ tướng, sau 2 nhiệm kỳ liền làm Phó Thủ tướng Thường trực, phụ trách khối Tài chính - Ngân hàng và một số khu vực kinh tế Nhà nước khá quan trọng. Đó là cuộc chuyển giao quyền lực cơ quan hành pháp giữa nhiệm kỳ đầu tiên ở Việt Nam, mà hình ảnh ấn tượng nhất là cái bắt tay hình thức giữa một ông già thấp bé, cổ nghểnh, từng luống cuống làm rơi tờ giấy cẩm nang khi gặp Tổng thống Hoa Kỳ Geerge Bush ngày 21-6-2005, với một người trẻ tuổi, cao to, có nét phong độ.

Một năm sau, ngày 25-7-2007, Thủ tướng  Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử, với số phiếu gần như tuyệt đối (96,96%). Đến thời điểm đó Nguyễn Tấn Dũng  là một Thủ tướng trẻ nhất Việt Nam.

Ông sinh ngày 17-11-1949, nhằm ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Sửu, cung Càn, cầm tinh Con Trâu, mạng tích lịch Hỏa, thường là tuổi của những người lãnh đạo bẩm sinh, có đặc tính thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu nhường nhịn ai, không cho ai cản đường, độc đoán chuyên quyền, bảo thủ cố chấp, không nghe lời khuyên chân thành mà dễ xiêu lòng vì  nịnh nọt, tình tình dễ nổi nóng, nên có khi tự phá hỏng hình ảnh của mình.


Với một khuôn mặt đầy đặn, thường là tươi tắn, trang phục chỉn chu, nói năng lưu loát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị lép khi đứng bên cạnh Thủ tướng các nước trong khu vực, thậm chí với các nguyên thủ quốc gia phương Tây. Ông  có phong thái ngoại giao được coi là chững chạc, không luống cuống như người tiền nhiệm, cũng chưa có những câu nói hớ  làm trò cười cho thiên hạ như “nhà hùng biện” Nguyễn Minh Triết...

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạo cho mọi người thấy một gương mặt lãnh đạo trẻ, năng động, và tự tin hơn.

Trong buổi lễ nhậm chức, Thủ tướng đã khẳng định sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân, điều hành một chính phủ trong sạch, thực thi dân chủ, công bằng, nếp sống văn minh. Ông bày tỏ quyết tâm phòng chống tham nhũng, một vấn đề tồn đọng và phát sinh rất ma quái, bức xúc nhất, nan giải nhất mà người tiền nhiệm bó tay, và ông đặt cược sinh mạng chính trị của mình vào trận tuyến nóng bỏng này: “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay!” (Phát biểu trong lễ nhận chức Thủ tướng  chính phủ 27-5-2007).

Về tự do dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội: “Cần sớm có Luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền được ghi trong Hiến pháp” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011). Ông khẳng định dân chủ là nền tảng của một xã hội công bằng văn minh. Ông nói: “Phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở” (Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Dương Thị Bạch Mai 24-11-2010).

Đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dõng dạc trước Quốc hội: “Chúng ta đã làm chủ ít nhất là từ thế kỷ 17 hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với Hoàng Sa, năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông, năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Sài Gòn. Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó, cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Quốc. Lập trường nhất quán của chúng ta là, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định vấn đề này” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).

Với những 'cú' phát ngôn và những động thái đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nổi bật như một ngôi sao sáng.

Nhiều người, trong đó có tôi, đặt kỳ vọng ở ông.

Thực tế thời kỳ đầu đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xứng đáng với kỳ vọng ấy.

Nhà  phân tích chiến lược phát triển kinh tế Mỹ, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quan hệ thương mại Hoa Kỳ - ASEAN, Ernest Bower, nhận xét: “Trong 200 ngày đầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tạo cho mọi người thấy một khuôn mặt lãnh đạo trẻ năng động, quyết đoán, hành động kiên quyết hơn. Ông được giao nhiều quyền hành hơn và ông tin tưởng vào những quyết định của chính sách mà ông đưa ra. Ông đã làm cho thế giới có một cái nhìn khác về Việt Nam!”.

Đúng như vậy! Bằng nỗ lực của mình, Thủ tướng đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, đưa vốn đầu tư nước ngoài cao nhất kể từ trước tới nay, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, và cả đầu tư chứng khoán. Những dự án quy mô vài trăm triệu đô la xuất hiện trên mặt báo, tạo ra không khí cạnh tranh sôi động, Việt Nam vượt lên 8 bậc về môi trường hấp dẫn đầu tư.

Về phòng chống tham nhũng, ông đã cố gắng minh bạch hệ thống hành chính, bớt đi sự mập mờ trong mối quan hệ xin cho, giao quyền cho chủ động cho địa phương và cấp dưới. Việc tiến hành điều tra, đưa ra xét xử vụ PMU 18, là quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi, ai cũng biết  “nhóm lợi ích” ấy có ô che rất lớn là Tổng bí thư  Nông Đức Mạnh. Kế đó Thủ tướng không ngần ngại xử lý vụ “ Đề án tin học hóa hành chính nhà nước 112”, một Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ đã phải vào tù.

Về ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cải thiện đáng kể uy tín và hình ảnh đổi mới của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Ông phá vỡ khối băng dày 60 năm giữa Việt Nam và Vatican, một quốc gia nhỏ bé nhưng đầy quyền lực, là linh hồn của hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo, trong đó Việt Nam có 6 triệu, là một trung gian quyền lực thế giới, bằng việc tiếp kiến Đức giáo hoàng Benedicto XVI ở Vatican.

Sự kiện Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, và việc Việt Nam trở  thành “Thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc” đánh dấu những mốc son hội nhập và nâng cao uy tín của Việt Nam trong đó có công lao của Thủ tướng.

Tháng 5-2007, Tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 1 trong 20 nhân vật cải cách ở châu Á.

Trong  hội nghị “Diễn đàn kinh tế thế giới” nhóm họp tại Davos, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nằm trong nhóm lãnh đạo hạng A.

Đó là những điểm dễ tạo ra kỳ vọng không thể phủ nhận.

Nhưng hình như có một quy luật, càng nóng nhanh càng mau nguội, người ta vẫn nói "bạo phát bạo tàn", ngôi sao càng chói sáng càng dễ mờ, bởi nguồn năng lượng cạn kiệt, không biết giữ gìn, điều tiết. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với nhiều bứt phá, muốn rút ngắn công việc một nhiệm kỳ 5 năm xuống 4 năm, nhưng có lẽ do “giục tốc bất đạt” ông bị va vấp quá nhiều trong giai đoạn tiếp theo.     

Cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu như một cơn sóng thần cuốn phăng cả những nền kinh tế hùng mạnh nhất. Việt Nam đã có quá trình hội nhập, nên cũng bị ảnh hưởng. Nhưng cùng hoàn cảnh, thậm chí hội nhập sâu hơn, tình hình chính trị và xã hội, cũng như môi trường khí hậu bất lợi hơn, nhưng các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, đã ứng phó thích hợp, nên đáy suy thoái nông và vượt thoát nhanh hơn.

Trái lại cái vũng xoáy suy thoái Việt Nam dường như không đáy, và không biết đến bao giờ mới vượt lên được?

Có nhiều nguyên nhân, nhưng sai lầm về hoạch định đường lối và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, quản lý tài chính, tiền tệ, buông lỏng chống tham nhũng là những nguyên nhân chính. Và sai lầm này thuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Ông là Trưởng ban hoạch định kinh tế của Ban chấp hành trung ương đảng, Trưởng Ban phòng-chống tham nhũng. Ông đã đề nghị ghi vào văn bản báo cáo trước Đại hội X: “Thúc đẩy việc hình thành Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty Nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, trong đó chủ sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”.

Hệ lụy của nền kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ quan điểm này.

Thực ra nó không mới, mà đã nhen nhúm từ những năm đầu thập kỷ 90, khi Đỗ Mười làm Tổng bí thư, và ông Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Đỗ Mười sau khi thăm Hàn Quốc, đã nảy ra ý tường “Một nền kinh tế phát triển phải có những quả đấm thép!”. Để thực hiện ý tưởng Đỗ Mười, một nửa số Ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ đó, đã khăn gói sang Hán Quốc “tầm sư học đạo”, và cảm thấy choáng ngợp bởi mô hình Chaebok. 

Ông Võ Văn Kiệt cũng tán thành, nhưng khá thận trọng, nên chỉ ban hành hành hai quyết định 90, 91, thành lập thí điểm tập đoàn kinh tế mạnh. Năm 1997, Phan Văn Khải thay ông Võ Văn Kiệt, nhút nhát hơn, nên 9 năm sau mới cho ra đời được 3 tập đoàn là: Tập đoàn công nghiệp than - khoáng 26-12-2005, Tập đoàn bưu chính viễn thông 09-01-2006, Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin 15-05-2006. Ông Phan Văn Khải đã ký quyết định cho Vinashin vay 700 triệu đô la với kỳ vọng ngành đóng tàu Việt Nam ngoi lên hàng đầu thế giới.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với tư duy bứt phá, đẩy nhanh tốc độ phát triển tập đoàn mạnh. Nhậm chức ngày 27-6, hai tháng sau, ngày 29-8-2006 ông ký quyết định thành lập Tập đoàn dầu khí; ngày 3-10, Tập đoàn cao su và, đến năm 2011 đã có 13 “quả đấm thép” đã ào ào ra đời.

Các tập đoàn với chức năng đa ngành nghề, nên mạng lưới tỏa rộng khắp mọi nơi, lại có quyền liên doanh liên kết, quyền độc lập hoạch định chiến lược phát triển và cấu trúc kinh tế nên không ai kiểm soát được. Hai ngành mà các tập đoàn hăng hái đầu tư nhất là bất động sản và ngân hàng. Các trụ sở ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, HTX tín dụng mọc lên như nấm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chất đầy các ngăn tủ mỗi tập đoàn.

Trụ sở các tập đoàn hoành tráng mọc lên như ganh đua với tòa nhà chọc trời Petroland của Tập đoàn dầu khí, những ông chủ tập đoàn vừa khoác áo quan chức, đầy quyền uy, lại vửa khoác áo doanh nhân tha hồ buông thả, dưới một người, trên muôn người, xài tiền xả láng.

Một tập đoàn ra đời vốn tự có nhiều lắm là trăm tỷ đồng, chủ yếu là nhà cửa đất đai của nhà nước, nên hầu như 100% vốn hoạt động vay ngân hàng, dưới sự bảo trợ của chính phủ. Trên thế giới không có bất kỳ một tổ chức kinh tế nào được ưu ái như những tập đoàn kinh tế Việt Nam, được mệnh danh là vai trò chủ đạo nền kinh tế của đất nước, được nhà nước bao bọc từ A đến Z, như những đứa con cưng được nha mẹ chăm bẵm! Hầu như toàn bộ ngân sách dành cho phát triển kinh tế, cả nguồn vốn  ODA, đều ném vào các tập đoàn, ngân sách cạn thì đi chính phủ bảo lãnh cho vay nước ngoài. Xin lấy ví dụ một tập đoàn điển hình là Vinashin.

Ngay khi thành lập, Vinashin đã được vay 700 triệu đô la. Sau 4 năm hoạt động tập đoàn này vay thêm 80.000 tỷ nữa. Không biết họ làm ăn ra sao, nhưng khi nghe Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Thanh Bình kêu than không được phát hành tín phiếu, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng sửng cồ lên: “Ai không cho các anh làm tín phiếu?”. Và sau đó 10.000 tỳ đồng tín phiếu chính phủ được bơm thẳng vào cái tàu không đáy Vinashin.

Ngày đó tôi được biết có người đã thẳng thắn can gián Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ông tin Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng hơn.

Trước kia chính phủ có một bộ phận tư vấn kinh tế, đứng đầu là tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẹp bỏ, thay các chuyên gia kinh tế bằng những chuyên gia luật pháp như Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, hình như đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong những quyết định về kinh tế và những quyết định mất lòng dân về tự do dân chủ?         

Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức, ông có trong tay 23 tỷ đô la vốn dự trữ, đó là số tiền không nhỏ, tích cóp được qua nhiều năm từ thuế của dân và tài nguyên của đất nước. Khi  nền kinh tế lâm vào tình trạng thiểu phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tung ra một gói kích cầu 143.000 tỷ đồng tương đương 8 tỷ đô la. Nhưng nguồn tiền khổng lồ ấy chảy không đúng các mục tiêu, nên không có khu vực kinh tế nào được khởi sắc. Nó chỉ có ít tác dụng vào cuối năm 2009, rồi bị hụt hẫng ngay khi bước sang năm 2010. 

Tiền dự trữ quốc gia bung ra làm bội chi ngân sách tăng vọt, và tình trạng bất ổn xuất hiện ngay từ khi nền kinh tế nhìn bề ngoài có vẻ còn hưng vượng.

Trước năm 2006 tổng đầu tư nhà nước lớn nhất không vượt quá 36% GDP, năm 2007 tăng vọt lên 44% và 2008 lên 47%. Vốn đầu tư tăng vọt kéo theo tăng trường tín dụng, năm 2006: 21,4%, 2007: 38,7% và đó là lực đẩy con tàu lạm phát tăng tốc .

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn hãm phanh con tàu lạm phát bằng biện pháp nâng dự trữ bắt buộc của ngân hàng và thắt chặt chi tiêu, nhưng hình như đó chưa phải là một liều thuốc đúng, hơn nữa do sức mạnh quyền lực bị hạn chế, bị các nhóm lợi ích chi phối, nên không có tác dụng, tỷ lệ lạm phát từ 9,9% năm 2008 leo lên 12,3% năm 2009, rồi 16,2% năm 2010, 17,5% năm 2011 và 18,2% mấy tháng đầu năm 2012.

Lợi dụng đục nước béo cò, nhóm lợi ích tài chính ra tay đục khoét ngân hàng, bẻ gãy xương sống của nền kinh tế! Tiền từ ngân hàng nhà nước tuồn cho ngân ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng này chuyền tiền qua ngân hàng kia, tạo ra cái “đèn cù ngân hàng” loanh quanh “kinh doanh tiền tệ”, ăn lãi suất chênh lệch. Đồng tiền không được ưu tiên dành cho sản xuất kinh doanh, cho tái sản xuất mở rộng, mà lượn lờ trong mớ bung xung kinh doanh tiền tệ, đồng tiền không đâu lại trở thành hàng hóa, chính tiền đẻ ra tiền cho các nhóm lợi ích vơ vét, moi rỗng quốc khố. Lãi suất huy động hạ cực thấp bóp chẹt dân, lãi suất cho vay lại tùy sự thỏa thuận. Doanh nghiệp và người dân vay tiền ngân hàng rất khó, lắm thủ tục nhiêu khê, nhưng bọn cò đất, đại gia kinh doanh bất động sản vay lại dễ ợt và được bỏ qua những nguyên tắc một cách dễ dàng. Những gói kích cầu hàng chục ngàn tỉ đống tiếp theo trở thành miếng mồi béo bở cho các nhóm lợi ích. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá chưa phải là trùm của băng nhóm tội phạm này, và Thống đốc Nguyễn Văn Bình không phải vô can khi để cho các băng nhóm thâu tóm ngân hàng!

Ngày 25-5-2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 24, là cú đòn quyết định hạn chế lạm phát, ổn định thị trường vàng nói riêng, giá cả nói chung, nhưng đó lại là một cú sốc gây phản ứng trái chiều.

Bức tranh kinh tế Việt Nam tôi đã mô tả trong bài viết trước, nay chỉ xin ghi lại tấm biểu đồ tăng trường kinh tế Việt Nam, tôi nghĩ đây cũng là “tấm biểu đồ sụt giảm uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”: Năm 2002: 7,08%; 2003: 7,34%; 2004: 7,79%; 2005: 8,44%; 2006: 8,38%; 2007: 8,23%; 2008: 6,31%; 2009: 5,32%; 2010: 6,78%; 2011: 5% và năm 2012 chỉ còn 5,03%.


“Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước QH, trước toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành”...

Nhưng sa sút về kinh tế, chưa hẳn đã là nguyên nhân chính làm mọi người thất vọng về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự thất vọng lớn hơn về ông là những quyết định, lời nói và việc làm của ông không nhất quán. Hầu như việc gì, ở đâu ông vẫn cố gắng nói hay, nói cho lọt tai người khác, diễn đạt khúc chiết, hẹn ngon hứa ngọt, nêu quyết tâm cao, việc gì cũng “quyết liệt”, nhưng nhiều vấn đề sau khi “quyết” là bị “liệt” luôn. Nói hay, làm dở, nói mạnh nhưng không làm là đặc điểm nổi bật của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được dư luận đúc kết.

Ông nói phát huy quyền làm chủ rộng rãi, nhưng ông lại ký chỉ thị 37: “Kiên quyết không để tư nhân hóa dưới mọi hình thức, không để bất kỳ tổ chức, cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng”. Ông nói báo chí là kênh thông tin quan trọng, cần khuyến khích các loại hình thông tin, nhưng ông lại cho ra Văn bản 7169 cấm đoán cán bộ nhân viên Nhà nước đọc mạng Internet. Ông lên án Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam nhưng ngay sau đó lại đồng tình cho chính quyến thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đàn áp và vu cáo người biểu tình là gây rối! Ông nói như đinh đóng cột là không chống được tham nhũng sẽ từ chức ngay, nhưng khi thất bại, thì không nói lại một lời với dân cho phải đạo, cho có trước có sau! 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quá dễ dãi trong ban phát chức tước quyền hành cho ba người con của mình. Nhẽ ra với cương vị một người đứng đầu chính phủ ông phải biết tự kiềm chế cái tiểu tiết để giữ cái đại cục, như Khổng Tử nói: “Đừng đừng để con dê béo che mất trái núi!”.

Người ta đã nói đi nói lại lời trần tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp Quốc hội, tôi cho đó là lúc ông nói thật nhất, bởi nếu không, ông sẽ có một cách nói khác.

Tuy nhiên từ đó tôi nghĩ, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rộng lượng với dân, với người khác, như  rộng lượng với bản thân, với vợ con, anh em nội ngoại của mình thì dù ông có là X, là Y, Z gì đi nữa, ông vẫn dành được tình cảm của nhiều người. Đáng tiếc việc hành xử của ông trong vụ án tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, và mới đây nhất, cho công bố bản kết luận của Thanh tra chính phủ về sai phạm đất đai của thành phố Đà Nẵng, gây nhiều phản cảm. Hình như điều này ứng vào tính cách của người tuổi Kỷ Sửu, mà tôi đã trình bày ở trên: “Không nghe lời khuyên chân thành lại dễ xiêu lòng bởi lời nịnh nọt, và dễ nổi nóng nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình”! Hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X Đảng đã gần như khoán trắng, giao quá nhiều quyền cho Chính phủ. Gần 20 năm giữ trọng trách như Phủ Chúa ở Ba Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu có những biểu hiện đem lại sự kỳ vọng không chỉ trong nước mà còn có cảm tình với một số chính khách trên thế giới. Nhưng từ năm 2012, ông đã làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước phải thất vọng. 

Nhân ngày 22-12-2012 ông Ba Dũng đã xem vở “Lời thề thứ Chín”. Ông là con liệt sĩ, là sĩ quan quân đội, chắc ông vẫn nhớ 10 Lời thề danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, lời thề thứ 9 là: “Khi tiếp xúc với dân làm đúng ba điều răn: "không lấy của dân, không dọa nạt dân, không quấy nhiễu dân" và ba điều nên: "kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân" để gây lòng tin cậy đối với nhân dân, thực hiện quân dân một ý chí". Vở diễn đặc sắc về đề tài đấu tranh với hiện tượng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ có chức quyền, tha hóa trong đời sống, không vì lợi ích của nhân dân, trù dập người lương thiện, gây ra những nỗi khổ, những bất công trong xã hội. Tôi hy vọng ông Ba Dũng không quên điều đó.
M.D

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét