Phạm Quý Ngọ, sinh năm 1954, Trung tướng Công an Nhân dân, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam. Sinh ngày 24 tháng 12 năm 1954; Quê quán: xã Đông Cường, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình, nơi cư trú: CHCC Pacific Place - 33B Phan Bội
Châu - Hà Nội. Dân tộc: Kinh. Tốt nghiệp: Đại học Cảnh sát nhân
dân. Ngày 19/04/1980, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bà Sính ở làng Tò có họ
xa với gia đình tôi.
Làng Tò cách làng Hệ một
con sông nhỏ, có cái cầu ván bắc qua, hai bờ tre rủ bóng xuống dòng nước
xanh ngắt. Tiếp giáp giữa làng Tò và làng Hệ là một nghĩa trang chung của hai
làng. Người ta nói mộ cụ tổ làng Tò phát về quan lộc nên làng ấy thời nào cũng
nhiều người làm quan, còn lảng Hệ chỉ quen chân lấm tay bùn. Bởi thế có câu:
“Quan làng Tò, bò làng Hệ”, nghĩa là người làm quan bên làng Tò nhiều như bò
làng Hệ.
Cụ Sính người làng Hệ lấy
chồng làng Tò. Nghe nói trước cụ đẹp gái lắm nên mới lấy được chồng làng Tò, bình
thường thì đừng hòng được trai làng Tò để mắt tới. Có lẽ vì vậy nên cụ
Sính rất tự hào làm dâu bên ấy.
Nhưng số cụ Sính vất vả.
Lấy chồng năm mười tám, chồng đi bộ đội biền biệt, mãi đến năm hai nhăm mới
sinh được con trai đầu lòng. Con mới một tuổi thì chồng hy sinh ở mặt trận
Điên Biên, cụ một mình nuôi con khôn lớn. Năm 1972, anh Sửu, con cụ, mới 19
tuổi đã xung phong đi bộ đội. Đúng là đất làm quan, năm 1978, mới 25 tuổi, anh
Sửu đã làm đại đội phó. Cũng năm ấy anh cưới vợ, rồi lên biên giới phía Bắc,
không ngờ đầu năm sau anh hy sinh, để lại đứa con trai vừa lọt lòng cho bà
nội nuôi, chị Sửu mất vì bệnh hậu sản...
Do vất vả như thế, nên
người cụ Sính quắt lại, hai bả vai mỏng mảnh nhô lên, làm cái cổ thụp xuống như
con rùa già. Năm nào về quê sang thăm cụ, tôi cũng nghe cụ thở vắn than
dài, hờn trời trách đất, đến não ruột. Nhất là khi nhắc đến thằng cháu nội, cụ
bảo van vái thế nào nó cũng chưa chịu lấy vợ, vì còn ham phấn đấu lên cấp lên
chức. Cụ sợ mắc tội với tổ tiên bên chồng vì không có người nối dõi. Tôi muốn gặp
thắng Kỳ nhưng chưa được, nghe nói nó là thượng úy công an.
Năm ngoái tôi về đúng
ngày giỗ cụ ông, dân làng tới dự rất đông, có cả mấy vị người làng làm quan
trên huyện, trên tỉnh đi xe hơi về sang trọng lắm. Một người người đàn ông khoảng
gần sáu chục tuổi, tầm thước, mặt mũi khôi ngô nhưng nước da và cặp mắt vàng ệch
như người bệnh gan mãn tính chủ trì đám giỗ. Các quan chức săn đón và tỏ ra rất
kính trọng ông ta. Cụ Sính chỉ người đàn ông đó nói nhỏ với tôi :
- Nhà Quý đấy!
Nhìn cụ Sính như trẻ ra
mấy tuổi. Cụ mặc áo dài, đội khăn nhiễu, đeo sợi dây cườm nhóng nhánh, miệng cười
móm mém tươi đỏ quyết trầu. Hôm ấy sau khi cúng giỗ tiệc tùng xong, mọi
người về hết. Thằng Kỳ cũng lên xe về Hà Nội với người đàn ông chủ trì đám giỗ.
Cụ Sính khoe với tôi:
- Đám giỗ hôm nay nhà
Quý bỏ tiền ra làm đấy!
- Quý con ai bà nhỉ?
- Con cụ Quyền chứ ai?
Làm to lắm, trên Hà Nội kia!
Cụ Sính cho miếng trầu
vào cái cối đồng như cái chén uống rượu, nghiền nát, rồi kều vào miệng
nhai bỏm bẻm. Hơn tám chục tuổi, ngưởi bé choắt, khuôn mặt tóp teo như
trái táo khô, nhưng được cái mắt cụ vẫn tinh, đi lại nhanh nhẹn và chưa bị lẫn.
Cụ cứ nhắc đi nhắc lại “nhà Quý, nhà Quý” vừa thân thiết vừa tự hào làm
tôi phát ghen. Tôi hỏi anh Quý là ai mà tử tế thế, cụ Sính cười bảo:
- Người ta có đức nên mới
thế! Vào đến trung ương rồi vẫn nhớ lúc hàn
vi.
Cụ Sính nhổ bã trầu, rồi
chậm rãi kể cho tôi nghe chuyện anh Quý. Thì ra anh cùng tuổi anh Sửu,
cùng học một trường, cùng đi bộ đội một ngày, và hai người đều sống sót trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ. Sau ngày miềnNam giải phóng, Quý chuyền
sang công an, bây giờ đã lên cấp tướng, Sửu vẫn ở bộ đội và hy sinh năm 1979...
Cụ Sính tự hào nói với
tôi:
- Nhà Quý nhận thằng Kỳ làm
con nuôi. Nhà Quý nói cuối năm cưới vợ cho thằng Kỳ.
Tôi mừng cho cụ Sính.
Thế là cụ đã có chỗ nương tựa tuổi già. Tôi cảm thấy khâm phục anh Quý, dù quyền
cao chức trọng vẫn không quên người bạn đồng môn, và người đồng chí của mình.
Một năm qua đi tôi mải
làm ăn trong Sài Gòn, không để tâm đến chuyện đó nữa.
Cách đây mấy hôm tôi về
quê giỗ ông nội tôi. Theo phong tục trước ngày cúng giỗ tôi ra nghĩa trang
thắp nhang mộ ông bà tổ tiên, mời các cụ về từ đường dự đám giỗ.
Năm nay rét đậm quá.
Mùng năm tháng Chạp mà còn rét cắt da cắt thịt. Bầu trời xám xịt màu chì. Sương
dày chụp xuống nghĩa trang tối thẫm không nhìn rõ mặt người, gió rin rít qua
các khe mộ chí. Trong đời người lúc kiểm nghiệm cuộc sống minh mẫn nhất là lúc
đứng một mình trong nghĩa trang. Những bon chen, hờn oán, những mơ mộng viển
vông, những khát vọng, và tuyệt vọng được dung hòa giữa không gian tĩnh lặng
lằn ranh hai thế giới. Tôi thắp bó nhang, cắm từng cây trên tửng ngôi mộ và có
cảm giác những đôi mắt nhìn mình.
Trong tiếng gió rít hình
như có tiếng khóc, tiếng réo gọi tuyệt vọng? Tôi lắng tai nghe, tiếng khóc rõ
hơn. Tôi len lỏi qua những hàng mộ, tìm về phía tiếng khóc.
Đi miết tới cuối nghĩa
trang, cạnh bờ sông, tôi nhìn thấy một thân hình nhỏ bé đang ngồi cạnh ngôi mộ mới chôn, giữa mấy vòng hoa xác
xơ, đốm nhang cháy trên mộ đỏ lập lòe. Tôi đến gần, nhận ra đó là một người đàn
bà mặc đồ đen, đầu đội khăn tang. Bà vẫn không hay biết, vẫn ôm ghì nấm mộ, tiếng
khóc ai oán như từ dưới lòng đất vọng lên:
- Kỳ ơi! Sao cháu bỏ bà Kỳ
ơi!
Như có kim đâm vào
xương sống, tôi giật bắn người, và một cảm giác bàng hoàng không thể diễn tả nổi,
tôi thét lên:
- Ôi, cụ Sính!
Tôi ngồi sụp ôm gọn cụ
Sính vào lòng. Người cụ lạnh băng, nhẹ tênh, như một con búp bê bằng nhựa. Ôi
sao lại đến nỗi này hở trời?
Tôi bế cụ vào nhả người
quen gần nghĩa trang. Cả nhà xúm vào xoa dầu gió cho cụ, đổ cho cụ vài thìa sữa
nóng, cụ tỉnh lại.
Tôi không thể nhận ra cụ
Sính một năm vể trước. Cụ đã tóp lại như một trái chanh vắt kiệt nước, tóc bạc
trắng, hai hố mắt lõm sâu, hai bàn chân bàn tay rệu rạo những đốt xương lạnh ngắt.
Cụ nhìn tôi, mắt lờ đờ,
thều thào:
- Nhà Quý ác lắm!
Cụ chỉ nói được như vậy
rồi cụ khẽ nấc lên ba nấc. Mắt cụ mở to. Tôi lấy tay vuốt mắt cho cụ. Hai con mắt
khép lại và hai hàng nước mắt lăn ra hai gò má nhăn nheo của cụ. Cụ ra đi cô
đơn trong ngôi nhà người quen làng Hệ nơi cụ sinh ra.
Mấy ngày sau dân làng
Tò, làng Hệ đều biết câu chuyện đau lòng về cụ Sính. Thương cụ bao nhiêu mọi
người căm ghét ông Quý bấy nhiêu. Người ta gọi hắn là con quỷ.
Viên tướng công an ấy là bạn
đồng môn, là đồng chí của anh Sửu. Hắn bị xơ gan cổ trướng đang chuyển sang
giai đoạn ung thư, biện pháp tốt nhất là thay gan. Tay chân của Quý
tình cờ phát hiện thượng úy Kỳ có nhóm máu và các chỉ số sinh học hợp với hắn, thế
là kịch bản con nuôi, đám giỗ được thực hiện nhằm mục đích lấy lá gan của
Kỳ.
Có thể Kỳ sẽ không chết nếu
Quý chỉ lấy nửa lá gan mà Kỳ đã hiến tặng. Vì tham sống lâu hơn, hắn móc ngoặc
với bọn bác sỹ vô lương tâm, đánh cắp gần hết lá gan của đứa “con nuôi”. Kỳ
vừa bị suy kiệt vừa bị nhiễm trùng, đã chết ba tháng sau khi hiến gan cho
quỷ.
Có một câu chuyện cổ
tích Campuchia kể rằng, con quỷ Rat-ta-rít-nom, thường ăn thịt đồng loại. Một
hôm, đệ tử cùa Rat-ta-rít-nom mang về một đứa bé, bảo đó là con trai duy
nhất của Ro-tor-tha-chạt, kẻ thù của Rat-ta-rit-nom. Con quỷ nói: “Hãy tha cho
đứa bé, để ta còn có kẻ thù mà khẳng định sức mạnh cùa ta! Không nên triệt hạ hết
nòi giống kẻ khác!”.
Tôi được biết sau khi ăn
cắp lá gan của con người đồng hương, đồng môn, đồng đội mình, cũng là con
nuôi, Quý khỏe mạnh hẳn, mặt mày béo tốt, da dẻ hồng hào và lại được lên cấp
lên chức. Càng
khỏe Quý càng lao vào các cuộc làm ăn bẩn thỉu và tàn nhẫn với dân lành hơn,
nên bây giờ cái dấu sắc bỗng cong vênh, người ta gọi hắn là Quỷ. Tôi nghĩ luật
nhân quả luôn hiện hữu và thế nào con quỷ đó cũng bị quả báo.
Cầu trời cho linh hồn cụ
Sính bình yên. Mong cụ linh thiêng giúp chúng con diệt loài quỷ dữ.
M.D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét