Đôi lời: Đây là phản hồi của một độc giả lấy bút danh
là “Nông Dân”, đã được BS biên tập, bổ sung ghi chú, hình ảnh đôi chút, xin
đăng lên để thêm thông tin về vụ việc thu hút sự quan tâm hiếm có của đồng bào
cả nước chỉ trong một thời gian ngắn.
NÔNG DÂN
Là người đang sống ở Tiên Lãng, Nông dân tôi
cố đưa ra cái nhìn khách quan nhất về sự kiện Đoàn Văn Vươn. Để tránh một phản
hồi quá dài, tôi sẽ chia làm ba phần và nhờ AnhBaSam lần lượt gửi cho những ai
quan tâm.
Phần 1: Đất và người Tiên Lãng (comment lúc
08:42 ngày 29/01/2012).
Phần 2: Quá trình khai thác bãi bồi ven sông,
biển và cái gọi là thu hồi của huyện Tiên Lãng (comment lúc lúc 09:26 ngày
30/1/2012).
Phần 3: “Trấn áp tội phạm”, “Bảo vệ hiện
trường” và cách xử lý hậu quả của lãnh đạo Hải Phòng.
Hình: 1- Xã Vinh Quang
PHẦN I - Đất và người Tiên Lãng
Tiên Lãng là một vùng đất nằm ở phía Nam Thành
phố biển Hải Phòng. Mảnh đất đầu sóng ngọn gió có từ hơn hai nghìn năm, đã được
ghi lại qua nhiều dấu ấn lịch sử văn hóa:
Miếu thờ ba chị em họ Tạ là Tạ Huy Thâu, Tạ Ả
Ráng và Tạ Đoan Dung ở xã Tiên Minh. Họ là những người đã tập hợp người dân địa
phương thành một đội quân gồm cả nam lẫn nữ rất đông, kéo về Mê Linh tụ nghĩa.
Khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại họ rút quân về quê tiếp tục kháng chiến,
nơi đó là mảnh đất cuối cùng Mã Viện bình định được.
Tiên Lãng là nơi có danh tướng Ngô Lý Tín có
công lớn đã làm đến chức Thái phó thời nhà Lý, chọn là nơi trở về với đất trời
(tại làng Cẩm Khê – Xã Toàn Thắng) đến nay đền thờ Gắm vẫn còn.
Tiên Lãng có ngôi cổ tự được xây dựng từ thời
nhà Lý cách đây trên 800 năm. Tại đây đã có rất nhiều các bậc cao Tăng trụ trì
và hành đạo, nay được tôn tạo thành chùa Phúc Thắng ở thôn Mỹ Lộc – xã Tiên
Thắng.
Tiên Lãng là quê hương của Hộ bộ thượng thư
Nhữ Văn Lan*, thân phụ của bà Nhữ Thị Thục một bậc nữ lưu tài hoa, người đã
mang tài học về lý số của mình truyền cho con trai là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm*.
Từ đời nhà Mạc để giúp dân Tiên Lãng chống
chọi với bão gió, triều cường vỡ đê, lụt lội, Mạc Đăng Dung đã cho tôn cao một
giải đất chạy dài dọc theo sông Thái Bình từ xã Bắc Hưng, vắt qua Tiên Minh,
Đoàn Lập tới bến Đò Hàn, để đến hôm nay người dân ở đó còn biết nơi họ đang ở,
làng xóm của họ, được xây dựng trên đường nhà Mạc khi xưa. Cách làm này, có
phải ngày nay đang được áp dụng với vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp có
bao nhiêu Làng, Xã ở huyện Tiên Lãng được nhà nước phong tặng danh hiệu anh
hùng? Nó đủ nói lên sự mất mát hy sinh của người dân Tiên Lãng ở thời kỳ này.
Tiên Lãng rất
nghèo, bạn có thể gặp trên khắp mọi miền của đất nước, những người xuất thân từ
Tiên Lãng đang sinh cơ lập nghiệp. Nhưng chắc chắn sẽ không ai gặp một người
Tiên Lãng đang đi ăn mày.
Viết những dòng
này Nông dân tôi chỉ muốn nhắc nhỏ những ai đang coi người dân Tiên Lãng nói
riêng, người dân Hải Phòng hay người dân cả đất nước Việt Nam chỉ là những đối
tượng phải “giáo dưỡng”, “thuần hóa” thì họ đang nhầm.
PHẦN II - Quá trình khai thác bãi bồi ven
sông, biển và cái gọi là thu hồi của huyện Tiên Lãng
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20, phần bãi
bồi hàng nghìn ha ở hai cửa sông Thái Bình và Văn Úc và bãi bồi biển Vinh Quang
đều để hoang hóa.
Năm 1988 Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đảng
CS VN được thực thi, lúc này chức năng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở
lại. Nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp bắt đầu hình thành và ngày càng
phát triển. Đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu của người Nông dân được khai thác
ngày càng hiệu quả. Ở Tiên Lãng những năm này bắt đầu có nhu cầu khai thác vùng
bãi bồi ven sông, ven biển. Đầu tiên là việc chính quyền một số xã, thông qua
các hợp tác xã nông nghiệp đã tổ chức đắp đê khoanh vùng tại các bãi triều ven
sông, với mục tiêu nuôi trồng thủy sản, nhưng hoàn toàn thất bại, chỉ sau mấy
tháng phần đê các hợp tác xã đắp phần lớn bị trôi phẳng.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 do Việt Nam
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, vùng biên giới được thông thương, một
số thủy sản trước kia chỉ là sản phẩm phụ nay được giá (ví dụ 1kg cua có thể
đổi được 10 kg gạo), vì vậy phong trào đắp đê tạo vùng nuôi trồng thủy sản bắt
đầu phát triển. Ban đầu một số hộ dân ký hợp đồng trực tiếp với chính quyền các
xã, hoặc các hợp tác xã nông nghiệp, họ hoàn toàn không có sự hỗ trợ tài chính
nào từ chính quyền, vì vậy đòi hỏi họ phải có chút ít tiềm lực, đặc biệt phải
có nhiều nhân lực (như gia đình Đoàn Văn Vươn có tới 7 anh chị em).
Khi luật đất đai năm 1993 có hiệu lực, chính
quyền huyện bắt đầu phải giao đất
cho các chủ đầm theo luật định và mặc nhiên quyền quản lý các đầm trên các vùng
bãi bồi thuộc thẩm quyền của huyện. Việc này giúp các chủ đầm yên tâm hơn trong
việc đầu tư và có thể dùng giấy quyền sử dụng đất thế chấp vay vốn từ các tổ
chức tín dụng.
Kết quả phong trào khai thác các bãi bồi ven
sông, cửa biển phát triển rất mạnh. Từ đó đã hình thành sự liên kết của các chủ
đầm, để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
Việc giao đất theo thời gian ngẫu hứng là cách
nghĩ của các quan huyện “tao không làm
được, nhưng tao biết, giao cho
chúng mày từng đó năm là có lãi rồi”. Điều này có phạm luật hay không xin
nhường cho các cơ quan hữu quan “đối chất”. Còn việc nói khi giao đất, các chủ
đầm có hợp đồng với huyện, khi hết hạn bị thu hồi không đòi hỏi phải bồi hoàn
tài sản, là phát ngôn láo toét.
Trở lại trường hợp thu hồi đầm của Đoàn Văn
Vươn và một số chủ đầm khác ở Tiên Lãng đợt này. Huyện đã giao quyết định thu
hồi cho các chủ đầm nhưng đều bị các chủ đầm phản đối mạnh mẽ, vì tính phi lý
của nó, vì tấm gương của chủ đầm Thảo (tôi quên mất họ)* với 70ha bãi bồi ở xã
Tiên Thắng, đã bị chính quyền huyện thu hồi và hành xử như thế nào (điều này
phải hỏi nguyên lãnh đạo Lưu Quang Yên sẽ rõ!). Mâu thuẫn hai bên ở thời điểm
này đã mang tính đối kháng.
Tưởng ý mình có thế bưng bít và đứng trên pháp
luật, dân là đối tượng không cần quan tâm, Lê Văn Hiền và một số lãnh đạo huyện
Tiên Lãng vẫn quyết định thực hiện cưỡng chế và chọn gia đình Đoàn Văn Vươn là
điểm bắt đầu với các toan tính:
– Thứ nhất: anh em Đoàn Văn Vươn là những
người hiền nhất trong các chủ đầm của huyện, lại theo công giáo và rất tôn trọng
pháp luật sẽ không dám chống đối những người được coi là “thi hành công vụ”.
- Thứ hai: anh em Đoàn Văn Vươn đang sử dụng
đầm trên 40ha tại xã Vinh Quang nơi có Lê Văn Liêm làm chủ tịch xã, Vươn lại là
người xã khác. Hai điều này có thể thuận lợi, để tạo được sự đồng thuận trong
cán bộ và nhân dân xã.
- Thứ ba: các chủ mới đã thỏa thuận xong, giao
kèo ngầm đã được ký kết. chỉ còn đợi ra “công khai” đấu thầu.
Có thể nói chính quyền huyện Tiên Lãng đã tính
toán rất kỹ, nên mới hơn 7 giờ sáng khi chủ đầm Đoàn Văn Vươn còn đang to tiếng
với các cán bộ xã, huyện tại UBND xã Vinh Quang, thì trước đó một mũi khác của
đoàn cưỡng chế đã bắt đầu xuống đầm và phát pháo nổ, súng phát hỏa xảy ra ở
thời điểm này.
Rất nhiều khả năng dù đoàn “cưỡng chế” có vào
khu đầm bình thường, thì gia đình Đoàn Văn Vươn vẫn có người bị bắt vì một lý
do theo kịch bản đã có sẵn.
Điều này căn cứ vào câu nói của một lãnh đạo
tham gia đoàn cưỡng chế “hỏng
mất kế hoạch, nhưng gia đình nó bị bắt hết cũng đủ răn đe rồi”.
Vì vụ án còn trong quá trình điều tra Nông dân
tôi chỉ xin thông tin như vậy (việc lộ bí mật trong quá trình điều tra, pháp
luật đã ngăn cấm).
Thông tin thêm: bí thư huyện ủy Tiên Lãng hiện
nay là đồng chí Bùi Thế Nghĩa nguyên là sinh viên khoa văn đại học Tổng Hợp,
chưa biết có mê “Kiều “ hay không, nhưng rất thích bàn văn và bình thơ. Đồng
chí chủ tịch Lê Văn Hiền mới hơn ba năm nhận nhiệm vụ đã luôn có được “ủng hộ”
và “thống nhất” của các cán bộ, ban ngành trong huyện ở rất nhiều công việc.
Luật đất đai ảnh hưởng nhiều nhất tới hơn 70%
dân số là Nông dân chúng tôi. Trước khi ban hành các bác cũng nên hỏi chúng tôi
một tiếng! Đừng để xảy ra sai phạm quá trầm trọng, các bác mới tìm nhau “đối
chất “ thì khó cho Nông dân lắm lắm.
Hình 2- Huyện Tiên Lãng (chụp
trên bản đồ trực
tuyến)
PHẦN III - “Trấn áp tội phạm”, “Bảo vệ hiện
trường” và cách xử lý hậu quả của lãnh đạo Hải Phòng
Việc cưỡng chế khu đầm Đoàn Văn Vươn chỉ là
một vụ cưỡng hành chính. Có sự tham gia của các phòng ban chức năng, dân,
chính, đảng tất nhiên có lực lượng công an.
Nhiệm vụ chính của Công an là để giữ gìn trật
tự đảm bảo cho hoạt động cưỡng chế diễn an toàn ra đúng pháp luật. Công an chỉ
xử lý những hành vi quá kích cản trở những người đang làm công tác cưỡng chế.
Công an Tiên Lãng chưa thực hiện đúng chức năng
khi tham gia cưỡng chế, bỏ mặc các tổ công tác và giữ gìn trận tự an toàn trên
đê, lại xông thẳng xuống đầm. Hình ảnh này tạo cho Đoàn Văn Quý có cảm giác như
đang bị truy đuổi, không làm chủ được bản thân, dẫn đến nổ súng và hậu quả đáng
tiếc 6 cán bộ chiến sĩ của lực lượng của huyện đã bị thương.
Vụ việc lúc này đã thực sự trở nên nghiêm
trọng, đối tượng đang là chủ sử dụng đầm bị cưỡng chế phút chốc trở thành tội
phạm sử dụng vũ khí nóng chống người thi hành “công vụ”. Tin tức được truyền đi
chắc chắn nó đã được đồn thổi. Đây là lúc cần bản lĩnh và sự trải nghiệm ở
người đứng đầu lực lượng công an thành phố.
Việc điều lực lượng bổ sung xuống hiện trường
để trấn áp “tội phạm” là cần thiết. Nhưng vừa nhận tin dồn dập về thương vong,
về hiện trường, lại phải tập hợp các đồng chí trong ban giám đốc và các phòng
ban chức năng, rồi còn phải báo cáo xin chỉ thị của cơ quan cấp trên, không
biết các “bộ não” đang sử dụng con chíp được lắp từ thế kỷ trước có xử lý kịp
không? (câu hỏi này là của cháu tôi).
Tới nửa buổi sáng các lãnh đạo công an thành
phố lần lượt xuất hiện cùng với lực lượng hùng hậu, xe lớn, xe nhỏ và các thiết
bị mà Nông dân chúng tôi chưa bao giờ được mục kích. Phần lớn lãnh đạo chưa đặt
chân đến Cống Rộc, làm sao hiểu hết thực địa đầm và con người của Đoàn Văn
Vươn.
Thế là lại nghe báo cáo, lại hội ý, xin ý
kiến, vác loa kêu gọi, yêu cầu đối tượng bỏ vũ khí đầu hàng, triển khai lực
lượng nhích dần từng bước, thậm thà thậm thụt, áp sát mục tiêu và đinh ninh là
ở đó có ba đối tượng nam và một đối tượng nữ đang cố thủ!
Ai đã biết những người trong gia đình Đoàn Văn
Vươn đều hiểu, họ sẽ hoảng hốt mà bỏ chạy, ngay khi nhìn thấy họ đã dùng súng
làm bị thương một số người.
Đại tá Ca bắt
đầu làm thất vọng rất đông người dân ở đó, khi cho phép nã đạn vào ngôi nhà
đang có nghi can ẩn lấp. Càng thất vọng hơn khi người dân chứng kiến cảnh bắt,
đánh đập đàn bà và trẻ con trước mặt mọi người. Ngay cả các đồng chí là sỹ quan
mà vẫn không can ngăn (không hiểu người dân cả nước sẽ nghĩ gì khi họ được mục
kích những cảnh này).
Nói về hiện trường, Giám đốc Ca là người mặc
áo chống đạn cầm loa chỉ đạo “tác chiến” trực tiếp và là những người đầu tiên
tiếp cận hiện trường. Phải biết hơn ai hết, đấy không phải là nơi có hầm
ngầm, bong ke cố thủ mà là nơi sống của một gia đình lao động với quần áo, chăn
màn, gường chiếu bàn tờ tổ tiên… (chắc chắc đại tá Ca hiện nay cũng có các bức
ảnh đẩy đủ nội thất căn nhà, sau khi lực lượng công an đã làm chủ ).
Hình 3 - Bức hình được cho là có đại tá
Ca đang cầm loa chỉ huy lực lượng công an cưỡng chế
Còn những cái
thu được tại hiện trường, ngoài bọc ni lông gói thuốc nhồi đạn hoa cải có thể
coi là bất thường, còn những vật khác như hai bình ga, mấy con dao phay, vài
tuýp sắt, cái bình ăc quy, cuộn dân điện, cả cái ống nhòm nếu được coi là vũ
khí gây án nguy hiểm, thì người dân Việt Nam phải dùng đồ vật bằng gỗ, hay quay
lại thời kỳ đồ đá cho an toàn!
Đoàn Văn Quý chỉ có nguyện vọng là được ra đầu
thú ở Công an thành phố, xem ra chưa hợp lý lắm. Hơn 20 ngày mà lực lượng Công
an thành phố còn chưa tìm ra được ai là chủ nhân cái máy ủi to như con voi đã
ủi nhà Đoàn Văn Quý, thì làm sao có đủ năng lực tìm ra nơi đã bán hai bình ga
(là đại lý hay bãi sắt vụn), hay như đối tượng đã mua xăng ở đâu để tẩm bao
nhiêu rơm đang phơi trải dọc một đường dài từ ngoài vào nhà. Không biết khi Bộ
vào, có tìm ra không nhỉ?
Qua những lời trả lời báo trí một vài ngày sau
đó, Nông dân tôi cho rằng lúc đó đại tá Ca đang thăng hoa với thắng lợi về một
trận đánh “đẹp”, vượt qua những tình thế chưa bao giờ có trong “giáo án” . Chắc
chắn những báo cáo đầu tiên với các cơ quan cấp trên, là những đánh giá đủ làm
an lòng cấp trên về cách thức xử lý của Công an thành phố.
Nhưng với những người dân Tiên Lãng đây là một
một chấn động mạnh mẽ, vượt lên trên sợ hãi là tình làng nghĩa xóm, là nỗi lo
cho họ hàng, anh em, bè bạn đang sinh sống ở Hùng Thắng, Vinh Quang (có ai bị
đánh không, có ai bị bắt không, có ai hệ lụy gì không?). Càng tìm hiểu họ càng kinh hoàng hơn với cách ứng xử của công an và
quan chức địa phương nơi đây. Có lẽ ngay lúc đó Lê Văn Hiền và lãnh đạo
huyện Tiên Lãng đã hiểu dư luận quần chúng nhân dân trong huyện đang không ủng
hộ họ.
Cùng chung các tâm trạng với người dân là các
nhà báo, nhưng họ nhạy cảm hơn. Họ đã cảm giác được những bất thường trong các
câu trả lời quanh co của quan chức huyện, của các quan chức thành phố trong các
cuộc họp báo vội vàng.
Khi lãnh đạo thành phố nhận ra sự phức tạp của
sự việc, thay cho việc nhìn thẳng vào sự thật để có những ứng xử thích hợp, họ
chọn giải pháp bưng bít thông tin, đưa ra những lời ngụy biện dối trá. Bằng
chứng là thông qua việc gặp gỡ các cơ quan thông tin, báo chí địa phương của bí
thư Thàng ủy chiều 19/1/2012, và trả lời báo trí tại Hà Nội ngày 17/1/2012 của
phó chủ tịch thành phố, phát ngôn của giám đốc công an trên truyền hình Hải
Phòng cùng ngày.
“Đường đi hay tối, nói dối hay cùng”. Tại sao
đến nay có người còn không hiểu trong thời đại công nghệ này, người dân cũng có
thể sử dụng các thiết bị hiện đại, để tự bảo vệ mình. Chính sự tráo trở, lừa
đảo của các quan tham đã dạy cho họ phải làm như vậy.
Khi xem các bản
tin thời sự được phát tối ngày 5/1/2012, Nông dân tôi phải ngả mũ “kính phục”
khả năng “tưởng tượng” của những lời bình được phát đi khi ấy! Ôi! cái mồm đẹp,
sao lại văng ra được những điều điêu ngoa đến thế.
Bổ sung (sáng 4/2/2012):
Trong một comment Nông dân được AnhBaSam tấn
phong là thổ công của huyện Tiên Lãng, hôm nay xin nêu ý kiến nhỏ liên quan tới
Đất.
Đúng là đất trong khu đầm của Đoàn Văn Vươn
tại thời điểm HIỆN NAY là đất nông nghiệp. Nhưng khi nghe “đối chất” của nguyên
chủ tịch huyện Lưu Quang Yên và GS Đặng Hùng Võ trên đài tiếng nói VN, Nông dân
tôi thiển nghĩ.
– Đặc điểm bãi bồi cửa sông, ven biển Tiên
Lãng; khi triều cường là một BIỂN NƯỚC với lơ thơ vài ngọn cây sú vẹt, lúc
triều rút là BÃI PHÙ SA NON mênh mông, dưới gốc các cây sú vẹt có chăng là một
vài đụm cỏ, hay số cụm cây muống biển. Khi đó các bác đưa nó vào đất loại gì?
- Chi phí đắp và giữ được đê bao và cống điều
tiết nước cho 10 đến 15ha, gần bằng phần đầu tư cho một khu đầm 40 – 50ha trên
vùng bãi triều lúc này, vậy các bác có định phân hạn mức không?
- Nếu hình thành được bờ ĐÊ BAO, có cống để
điều tiết nước, lượng phù sa trong khu vực sẽ được đông kết và bồi đắp rất
nhanh. Chỉ cần 3 đến 5 năm sau một khu đầm nuôi trồng thủy sản được hình thành,
lúc này nó trở thành đất nông nghiệp chưa?
Khu đầm Đoàn Văn Vươn và phần đông của các hộ
nuôi trồng thủy sản khác ở huyện Tiên Lãng 20 năm lại đây nó đã trải qua sự trở
mình như thế. Công lao ấy là của các hộ nông dân này. Các thành phần kinh tế
khác có tham gia không? Xin thưa là có, nhưng nó đều phá sản hoặc sắp phá sản
như dự án của tổng đội thanh niên xung phong Hải Phòng hoặc khu Nuôi trồng thủy
sản Việt Mỹ ở xã Tiên Hưng. Mỗi nơi cũng kịp giải ngân vài chục tỷ!
Tại sao lãnh đạo Hải Phòng và huyện Tiên Lãng
khi thu hồi không bồi hoàn? Họ vin vào việc các hộ khi nhận quyết định giao
đất, đã biết điều khoản như thế. Cộng thêm “ưu tiên” 7 năm các chủ đầm không
phải đóng khoản nào.
Xin thưa, người nông dân không phải là nhà
kinh tế, họ chỉ có tình yêu đất (họ đau khổ khi nhìn thấy vùng đất mình có thể
khai thác được, mà bị bỏ hoang).
Huyện cũng không ban ơn cho các chủ đầm 7 năm không phải đóng thuế vì điều này được ghi trong luật thuế của nhà nước “Miễn thuế khoai hoang dùng vào sản xuất …. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển : 7 năm“.
Khi các đầm được ổn định đi vào khai thác, cả
chủ đầm và quan chức chính quyền huyện đều giật mình.
Các chủ đầm thấy thời gian giao đất của mình
sắp hết. Cộng chi phí đắp, bồi trúc đê hàng năm và các chi phí tạo lập cơ sở hạ
tầng quá lớn. Khi không phải đối phó với sóng biển thì sóng “Nợ” sẽ đổ ập xuống
gia đình họ.
Các quan không làm nhưng tiếc của trời. Vì nếu
tính theo mức thuế của đất nông nghiệp tối đa không quá 2 triệu VND (theo hạng
đất này), thế thì là quá thấp nếu tính theo thu nhập từ nguồn lợi thủy sản? Nếu đem ra đấu thầu sẽ có khoản thu lớn cho cả ngân sách và cho
cả các túi quan. Họ cố quên rằng cái tiền ấy là tài sản của các chủ đầm cũ.
Cách đây hơn 10 năm người viết phản hồi (bài)
này đã từng chỉ ra cái phi lý cho phòng Nông nghiệp và phó chủ tịch huyện lúc
đó là ông Vũ Minh Đức. Với quan điểm “Các
anh phải biết, từ bãi bồi trở thành khu đầm nuôi trông thủy sản hoặc đất trồng
trọt không phải là quá trình tự nhiên. Khi các anh thu phải trả cho các chủ đầm
tiền tạo lập đê và tiền đầu tư vào cơ sở hạ tầng đúng theo thực tế và luận
chứng kinh tế mà các anh đã duyệt. Tất nhiên phải trừ đi các khoản hỗ trợ của
nhà nước (nếu có)”. Ngay lúc đó Nông dân
tôi đã biết, mình đã nói với hai đầu gối.
Các phát biểu khác của nguyên, đang là lãnh
đạo huyên Tiên Lãng tôi xin bình luận sau.
—
* Ba Sàm bổ sung: - Nhữ Văn Lan (Wikipedia).
– Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Wikipedia). - Ông
Lê Đình Thảo, mời đọc chi tiết bài trên Tuổi trẻ hôm nay: Vụ Tiên
Lãng: Lãnh đạo Hải Phòng gặp dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét