Trần Đức Việt, nhà báo tự do
Hôm nay, bà con ba xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công, huyện
Văn Giang nhộn nhịp vui vẻ đi gặt lúa. Mới ngày nào còn cắm cây mạ non tình
nghĩa của bà con Thái Bình chia sẻ với bà con nông dân Văn Giang, đến hôm nay
bà con Văn Giang đã có một mùa bội thu trên khu ruộng bị cưỡng chế. Cụ bà Lê Hiền
Đức và một số anh chị em ở Hà Nội cũng đã sang gặt với bà con và chia sẻ niềm
vui mùa vụ.
Nghe tin nhân dân Văn Giang (Hưng
Yên) thu hoạch vụ chiêm đầu tiên trên đất bị cưỡng chế, chúng tôi vội đến hỏi
thăm, chia vui cùng bà con. Cuộc đấu tranh của bà con kéo dài đã 9 năm, bằng cả
một cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đến nay có vụ chiêm đầu
mùa. Thóc mới, gạo mới thơm phức, lòng bà con cũng rộn ràng. Đây là kết quả ban
đầu của cuộc chiến đấu gay go, gian khổ, thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu đổ
xuống.
Nhớ lại năm 2004, ba cấp chính quyền ở
Hưng Yên tiến hành thu hồi đất, xây dựng khu đô thị mới. Gọi là thu hồi, nhưng
thật ra là cướp đất, cướp trắng trợn trên tay bà con. Nhân
dân gửi đơn khiếu nại, kêu cứu đến các cấp chính quyền từ địa phương đến trung
ương đều không được giải quyết sao cho có lý, có tình. Đêm 7 rạng sáng
ngày 8/1/2009, chính quyền dùng công an phối hợp với các loại côn đồ, đầu gấu bất
ngờ đến cướp đất. Nhân dân không kịp chuẩn bị đành để bọn giặc nội xâm cướp trắng
đất trên tay. Không chịu đầu hàng bọn giặc nội xâm, nhân dân gửi nhiều đơn khiếu
nại lên các cấp. Bà con bầu ra một "Bộ tham mưu Xuân Quan" gồm những người tích cực, hiểu
pháp luật để giúp bà con đấu tranh. Đơn từ gửi đi khắp nơi như bươm bướm
nhưng chính quyền lạnh lùng tiếp tục chuẩn bị... cưỡng chế.
Đầu năm 2012, tiếng súng của
ông Đoàn Văn Vươn nổ vang ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Nhân dân cả ba xã Xuân Quan,
Phụng Công, Cửu Cao bỗng nhiên bừng tỉnh. Một đoàn đại biểu nhân dân ba xã đến
Tiên Lãng tìm hiểu tình hình, thăm hỏi gia đình ông Vươn. Khi đoàn đại biểu trở về, công an đến
gặp thăm dò động tĩnh. Công an nói chuyện về súng, giá cả các loại súng: Giá
súng bây giờ một triệu một khẩu. Đại biểu dân phản đối: Không phải, chúng tôi
đã mua được súng chỉ có giá 500.000 đến 750.000 đồng một khẩu thôi. Đã mua đủ
súng rồi. Nghe tin chính quyền huyện sẽ cưỡng chế vào ngày 20/4/2012 Bộ tham mưu Xuân
Quan quyết định coi đây là vụ chống giặc nội xâm, cần chống trả như cách ông
Đoàn Văn Vươn đã làm ở Tiên Lãng. Bộ tham mưu dự tính khả năng lực
lượng cưỡng chế sẽ thực hiện vào đêm, giống như hồi tháng 1/2009 nên tổ chức
nhân dân ra canh giữ cánh đồng, đốt lửa suốt đêm. Đây là những đêm sôi sục, nhiều
nhà báo và những người yêu nước, thương dân từ khắp nơi đổ về cánh đồng Xuân
Quan, phối hợp đấu tranh. Nhưng chính quyền huyện Văn Giang đã lùi ngày cưỡng
chế sang 24/4. Đêm 23/4, Bộ tham mưu Xuân Quan họp bàn
lần cuối, tranh luận gay gắt. Kết quả
cuộc tranh luận này là ý kiến bảo vệ sinh mạng cho cả người đi cưỡng chế và bị
cưỡng chế thắng thế. Rạng sáng ngày 24/4 các bình ga được rút bỏ khỏi đống
củi tẩm dầu. Cuộc cưỡng chế diễn ra với tiếng nổ ran từ các quả nổ của công an
ném ra. Sau này, trong một lần nói chuyện với công an, người dân Xuân Quan nói:
Chỉ vì nghĩ rằng công an đi cưỡng chế cũng là con em mình nên dân mới rút bình
ga ra, còn nếu đây là giặc ngoại xâm thì chắc chắn sẽ bị tiêu diệt sạch, không
sót một mống. Cưỡng chế xong, nhóm côn đồ, đầu gấu của công ty ngày đêm đi tuần
trên đường làng, thấy dân ra là đánh. Bộ tham mưu Xuân
Quan quyết định tổ chức một trận đánh "giằn mặt" đối với nhóm đầu gấu,
từ đó chúng hết nghênh ngang, không dám bén mảng đến khu vực cưỡng chế.
Đất thu hồi xong, công ty bỏ hoang,
trong khi dân thì mất phương tiện canh tác kiếm sống, trong dân bắt đầu gặp nhiều
khó khăn. Bộ tham mưu Xuân Quan bàn bạc, đi đến quyết định tập hợp các hộ dân
chưa nhận tiền đền bù ra san lấp lại khu vực cưỡng chế, trồng lúa và chuối cải
thiện đời sống. Trong suốt một tháng, bà con san lấp được trên 15 mẫu và mua mạ
giống từ Thái Bình về gieo mạ, cấy lúa. Bà con bầu ra một Ban chủ nhiệm hợp tác xã quán xuyến mọi việc.
Ban chủ nhiệm có 24 thành viên, trong đó có một chủ nhiệm và 4 phó chủ nhiệm,
là các lão nông nhiều kinh nghiệm nhất. Tin bà con thành lập Ban chủ nhiệm hợp
tác xã được nhiều cơ quan truyền thông nước ngoài tìm hiểu và đưa tin. Điều đáng ngac nhiên nhất đối với truyền thông hải ngoại là
nhiều thành viên tích cực trong Bộ tham mưu Xuân Quan không có tên trong Ban chủ
nhiệm. Trong một cuộc phỏng vấn, nhà báo hải ngoại hỏi đi hỏi lại một
thành viên Bộ tham mưu Xuân Quan: Vì sao
anh không tham gia Ban chủ nhiệm? Trả lời: Ban chủ
nhiệm do dân bầu, không nhất thiết ai ở bộ tham mưu thì cũng ở ban chủ nhiệm.
Thật ra thì câu chuyện cũng đơn giản: Bộ tham mưu Xuân
Quan cần đến người hiểu pháp luật, còn Ban chủ nhiệm thì cần những người am hiểu
sâu sắc nghề nông. Ban chủ nhiệm đã xây dựng một hình thức "hợp tác
xã" rất mới, toàn tâm toàn ý với nhân dân, hoàn toàn không có hiện tượng
tham ô, tham nhũng, rong công phóng điểm như các hợp tác xã của nhà nước trước
đây. Bà Lê Thị Hiền, 82 tuổi, thành viên ban chủ nhiệm nói: Tôi già
nhưng vẫn ra ruộng làm việc để nuôi con cháu tôi. Bà con kể lại, bà Hiền ra ruộng
từ sớm và về rất muộn, ngày công lao động của bà rất cao nhưng bà ủng hộ cho
ban chủ nhiệm, không tính công. Khi được hỏi về nguyên nhân nào làm bà tích cực
như vậy thì bà bảo: Vì tôi làm việc trên đất của tôi, để giúp con cháu tôi. Trước
kia nhà tôi có 4 mẫu ruộng, là đất của cha ông tôi ăn bột, dành dụm tiền mua được.
Nghe theo lời kêu gọi của nhà nước nhường cơm xẻ áo cho người túng thiếu, gia
đình tôi đã giao ruộng cho hợp tác xã (nhà nước), rồi được hợp tác xã giao lại
năm miếng để sản xuất. Đây là đất của chúng tôi, không phải đất của nhà nước. Tôi
làm việc trên đất của tôi, để nuôi con cháu tôi nên tôi phải hết lòng.
Điều bà Hiền nói thật đơn giản, mộc mạc
nhưng chứa đựng môt chân lý lớn trong khoa học kinh tế chính trị. Bao nhiêu năm
nay các nhà triết học, kinh tế chính trị học tranh cãi về động lực phát triển
trong lao động sản xuất và các mô hình tổ chức để tạo điều kiện cho sản xuất
phát triển. Các tranh luận này làm xuất hiện nhiều "chủ nghĩa",
"học thuyết", "lý luận", "tư tưởng", tựu trung lại
vẫn để chỉ ra động lực sản xuất và thiết kế mô hình tốt nhât quản lý lao động sản
xuất. Ông V.I. Lenin cho rằng động lực mạnh nhất là lao động tập thể, không có
bóc lột và thiết kế ra mô hình hợp tác xã trong nông nghiệp với hi vọng đây là
mô hình tốt nhất xây dựng xã hội mới với tên gọi XHCN. Tuy nhiên, khi áp dụng
mô hình này, dù là hợp tác xã cấp thấp, cấp cao hay tiến lên nông trang tập thể,
công xã nhân dân thì vẫn thiếu hiệu quả, năng suất vẫn kém các nước tư bản. Thế
mà theo chỉ dẫn của Các Mác: "Một xã hội ra đời sau sẽ thắng xã hội trước
vì cho một năng suất lao động cao hơn", vậy thì theo chỉ dẫn này, chế độ
XHCN tất yếu sẽ chết, do năng suất lao động thấp. Nếu đánh giá "hợp tác
xã" mới xuất hiện ở Văn Giang bằng cách nhìn của chủ nghĩa Mác-Lenin thì
chúng ta thấy gì?
Điều đầu tiên dễ thấy nhất là mô hình
ở Văn Giang chứa đựng rất nhiều yếu tố XHCN. Về mặt chính trị, đây là mô hình
"chính quyền của dân, do dân, vì dân" rất điển hình, thỏa mãn các yêu
cầu khắt khe mà Lenin đề ra trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng khi tổng kết
kinh nghiệm của Công xã Pari. Lenin nói: Hai điểm cơ bản để nói dân chủ vô sản
hơn một triệu lần dân chủ tư sản, ngay ở các nước tư bản dân chủ nhất là: Một,
Người đứng dầu công xã hạ mức lương của mình xuống ngang lương một công nhân
thường; hai, bất kỳ cán bộ nào của công xã nếu không hoàn thành nhiệm vụ cũng bị
cách chức ngay lập tức. Đối chiếu 2 tiêu chuẩn cơ bản
này vào Ban chủ nhiệm ở Văn giang chúng ta thấy Ban chủ nhiệm chính là mô hình
công xã Pari trong hoàn cảnh Việt Nam. Vẫn theo Nhà nước và cách mạng,
Lenin cho rằng công xã thất bại vì không thực hiện "chuyên chính vô sản".
Ở Văn Giang chúng ta không thấy dấu vết của bất kỳ công cụ "chuyên chính"
nào. Bộ tham mưu Xuân Quan có dáng dấp của một "bộ
máy chuyên chính" đã lập tức giải tán sau khi thành lập Ban chủ nhiệm.
Chúng ta có thể xem Bộ tham mưu Xuân Quan là đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng luôn
có thể được thành lập lại bất kể lúc nào nếu có những áp lực đe dọa sự tồn tại
của Ban chủ nhiệm. Cái hay chính là ở đó, không có chuyện
công thần, tham quyền cố vị, không có những "siêu quyền lực" đặt trên
ý nguyện của nhân dân, tất cả chỉ để tạo ra một tổ chức dân sự phát huy mọi khả
năng phát triển kinh tế trong cộng đồng dân cư. Mô hình Văn Giang có nhiều
điểm hay, nhưng việc bàn sâu xin để dịp khác.
Bây giờ xin nói qua ý nghĩa của việc
xuất hiện mô hình Văn Giang. Nếu Hội đồng lý luận Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam kịp nhận ra nhân tố mới ở Văn Giang thì nên thừa nhận ngay mô hình này và
nghiên cứu để phát triển rộng khắp. Sở dĩ Văn Giang vửa có một vụ chiêm bội thu
chính là vì giải quyết vấn đề cốt lõi về quyền sở hữu đất. Đối với nhà nước, đất
là do nhà nước thống nhất quản lý, nhưng ở Văn Giang người dân coi đất là của họ,
không phải của nhà nước. Đấy là lý do làm người dân lao động hết mình, không so
đo tính toán. Mới nhìn chúng ta tưởng như ở đây có mâu thuẫn giữa quyền sở hữu
của nhà nước và quyền sở hữu của nông dân đến mức không điều hoà nổi, chỉ có thể
giải quyết bằng con đường "cưỡng chế". Nhưng thật ra việc giải quyết
rất đơn giản, chỉ cần công nhận quyền sở hữu đất đai của tập thể, ở đây là của
Ban chủ nhiệm, thế là xong. Quyền sở hữu đất của tập thể (Ban chủ nhiệm) không
phải là nhà nước nhưng vẫn là nhà nước, không phải của dân mà vẫn là của dân.
Ban chủ nhiệm trở thành một "cơ quan dân sự" có thực quyền tại địa
phương, vừa bảo đảm lợi ích của dân, vừa bảo đảm lợi ích nhà nước. Muốn vậy thì
ngay trong Luật đất đai nên sửa đổi: Đất đai thuộc sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể, tức là thừa nhận một hình thức sở hữu tập thể song
song với sở hữu nhà nước. Thừa nhận như vậy thì việc "giải phóng mặt
bằng" sẽ khác đi nhiều, chủ yếu là thỏa thuận giữa cơ quan nhà nước với tập
thể của dân chứ không phải làm việc với từng hộ dân. Điều này sẽ làm tăng tính
"dân sự" ở cơ quan nhà nước, đồng thời nâng cao tri thức của dân
trong các giao dịch dân sự với nhà nước. Chúng tôi nghĩ "liều" rằng
đây là mô hình xã hội dân sự của ngày mai đang hình thành trong xã hội hôm nay.
Có một khác biệt duy nhất cần nhắc lại: Mô hình này không có dấu vết của bất kể
hình thức "chuyên chính" nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét