Hội chợ Leipzig trở thành hội chợ hàng mẫu đầu tiên trên Thế
giới vào năm 1895. Đối với Cộng hòa Dân chủ Đức (CHDC Đức, tức Đông
Đức xã hội chủ nghĩa, 1949 – 1990), Hội chợ Leipzig là một trong những
nơi giao tiếp quốc tế quan trọng nhất. Chính quyền Đông Đức coi hội chợ này là nơi trưng bày thành
quả kinh tế và chính trị của CHDC Đức. Nhân dân Đông Đức tận dụng hội chợ này để tiếp xúc với kỹ thuật
và văn hóa của các nước tư bản phát triển. Hàng năm, khoảng 600.000 người đổ về
hai kỳ hội chợ, được tổ chức vào tháng ba và tháng chín. Trong hơn mười năm
sống ở Leipzig, tôi đã từng hòa mình vào dòng người ấy, thăm khoảng 20 kỳ hội
chợ, mỗi kỳ dành ra khoảng 3 ngày, và đã học được bao điều mới lạ, trong đó có
nhiều kiến thức về công nghệ.
Tại hội chợ hàng mẫu, người ta không bán hàng,
mà chỉ trưng bày hàng mẫu, để các doanh nhân xem xét, trao đổi và ký kết hợp
đồng. Các nhà trưng bày thường phân phát tài liệu quảng cáo, được in rất đẹp.
Người đi xem, nhất là cánh trẻ, thấy đâu đông cũng xếp hàng, mọi người lấy cái
gì thì mình cũng vơ cái đó. Nhiều khi đến tối mới có thời gian để đọc, mới biết
thành quả kiếm được trong ngày là gì. Và tất nhiên là phần lớn số tài liệu xa
lạ đó được bàn giao cho thùng rác.
Vào
kỳ Hội chợ Leipzig đầu năm 1987, một
công ty của Mỹ phân phát
bản sao của một bức tranh màu. Mọi người sà vào nhặt, tôi cũng ôm luôn một tập.
Về đến nhà mới giở bức tranh ra ngắm, thấy vẽ nhiều người ăn mặc kiểu quý tộc.
Chú thích của bức tranh viết là: “The Signing of the
Constitution” by Howard Chandler Christy 1787 (Bức
tranh “Lễ ký Hiến pháp” của
họa sĩ Howard Chandler Christy 1787),
dưới cùng in đậm “1787 ~ 1987“ (xem Ảnh 1). Hóa ra, bức
quảng cáo đó được in nhân dịp kỷ niệm 200 năm Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Ảnh
1: Mặt trước của tờ quảng cáo in bức tranh “Lễ ký Hiến pháp” của H. C. Christy
Lật
mặt sau bức quảng cáo, thì thấy phần gốc của Hiến pháp Mỹ và 10 Điều
bổ sung đầu tiên, được gọi chung là “Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa
kỳ” – “United States
Bill of Rights“ (xem Ảnh 2 – Nơi được đánh dấu
bằng bút màu là những chỗ mà tôi thấy đáng lưu ý khi đọc vào năm 1987).
Ảnh
2: Mặt sau của tờ quảng cáo in Hiến pháp Mỹ (bản
dịch tiếng Đức)
Sau
một ngày ròng rã lang thang ở hội chợ, tôi bâng quơ đọc trong mỏi mệt. Nhưng
càng đọc thì càng trở nên phấn chấn. Vốn được hệ thống giáo dục và tuyên truyền
trao cho một bức tranh màu tối về chính thể Mỹ, tôi bất ngờ nhận ra một thế
giới mới lạ trong Hiến pháp Mỹ, và
phát hiện ra những tinh hoa của khoa học và nghệ thuật quản lý nhà nước được
tích tụ trong đó. Dù không biết hiệu quả thực tế ra sao, dù biết rằng còn tồn
tại những điểm vẫn được tranh luận (ví dụ như quyền mang giữ vũ khí của công
dân, quy định tại Điều bổ sung sửa đổi II),
tôi vẫn rất trân trọng bản hiến pháp ấy,
vì nó đã dạy cho tôi nhiều điều bổ ích. Và hôm nay, chép ra đây một số cảm nhận
của 26 năm về trước, để bạn hữu gần xa cùng tham khảo.
Lời
nói đầu súc tích
Được
soạn thảo và ký kết trong năm 1787, có hiệu lực từ năm 1789, Hiến pháp Mỹ bắt đầu bằng câu:
“Chúng
tôi, Nhân dân Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, với mục đích xây
dựng một Liên bang hoàn hảo hơn nữa, thiết lập Công lý, đảm bảo
sự Thanh bình trong nước, chăm lo Quốc phòng, lo
liệu Phúc lợi chung, giữ vững Phúc lành của Tự
do cho chính mình và cho Hậu thế, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”.
Lời nói đầu cô
đọng này truyền tải nhiều thông điệp. Trước hết, chủ thể của Hiến pháp này
là “Nhân dân”, đã tập hợp thành một khối thống nhất là “Chúng
tôi”, những người chủ của Liên bang mang tên “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ“, và họ
đã “xây dựng Hiến pháp này”. Mục đích hướng tới là
thiết lập và bảo vệ những giá trị chung, bao gồm “Công lý” (Justice),“Thanh
bình” (Tranquility), “Quốc phòng” (common
defense), “Phúc lợi chung” (general Welfare) và “Phúc
lành của Tự do” (the Blessings of Liberty), không chỉ riêng cho
thế hệ người Mỹ đang sống, mà còn cho cả “Hậu thế”, tức là các thế
hệ mai sau của họ (our Posterity).
Tôi
không trích từ văn bản tiếng Việt đăng
trên trang chủ của Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam,
mà đưa ra lời dịch khác, nhằm thể hiện sát hơn cảm nhận của mình về Hiến pháp Mỹ. Một ví dụ cho sự khác nhau
là cách dịch cụm từ “secure the Blessings of
Liberty”. Trên mạng internet có nhiều người hỏi cụm từ
này có nghĩa là gì (giải nghĩa trong nội bộ tiếng Anh), điều đó chứng tỏ nó
không phải là hiển nhiên, dễ hiểu. Bản tiếng Việt của ĐSQ Mỹ dịch
cụm từ ấy thành “giữ vững nền tự do”,
tức là bỏ qua danh từ “Blessing”. Trong
Từ điển Anh-Việt của Viện Ngôn ngữ học (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam,
do Nhà xuất bản Khoa học xã hội in tại Hà Nội vào năm 1975), danh từ “Blessing” có
hai nghĩa gần nhất với nội dung đang đề cập là “phúc lành” và “hạnh
phúc, điều sung sướng”. Bản dịch sang tiếng Đức của ĐSQ Mỹ tại CHLB Đức chọn
nghĩa “hạnh phúc” (“das Glück der Freiheit”, tức
là “hạnh phúc của tự do”). Còn cá nhân tôi thì muốn chọn
nghĩa “phúc lành”, và dịch cả cụm từ thành “Phúc lành của
Tự do”. Bởi tôi phỏng đoán, rằng có thể các tác giả muốn dùng “the Blessings
of Liberty” để chỉ cái Tự do được Tạo hóa ban phúc cho Loài
người, nhằm nhấn mạnh: Quyền Tự do ấy cũng tồn tại đương nhiên như
Loài người, chứ không phải là kết quả ban phát của hiến pháp, hay của bất
kỳ chính phủ hoặc đảng phái nào cả.
Lời nói đầu của Hiến pháp Mỹ chỉ vẻn
vẹn 52 từ (tiếng Anh), tức là chỉ dài bằng khoảng 1/33 so với Lời nói
đầu của Hiến pháp Việt Nam 1980 và
bằng khoảng 1/10 so với Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam 1992.
Nhưng nó đã gói gọn tất cả những ý quan trọng nhất. Có lẽ, sự cô đọng, súc tích
đó đã góp phần làm cho Hiến pháp Mỹ trường
tồn suốt hơn 220 năm nay, trong khi nhiều hiến pháp khác đoản mệnh.
Hiến
pháp là để tổ chức và kiểm soát quyền lực Nhà nước
Trong
một nhà nước pháp quyền, thì hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất. Điều này thì
mọi người quan tâm đều rõ. Nhưng hiến pháp quy định những gì và nhằm mục
đích gì, thì không phải ai cũng biết hoặc có cùng quan điểm. Ngay trong
giới cầm quyền và những người viết ra hiến pháp, cũng có những nhận thức khác
nhau về vấn đề này. Vì vậy, các Hiến pháp Việt Nam thường
khác rất nhiều so với Hiến pháp Mỹ.
Ngoài Lời nói đầu, Hiến pháp Mỹ 1787 bao gồm 7 điều,
chứa các nội dung sau đây:
Điều
I: Quyền lực lập pháp (Quy định về cơ cấu, tổ chức, hoạt động
và quyền hạn của Quốc hội, bao gồm Thượng viện và Hạ viện)
Điều
II: Quyền lực hành pháp (Quy định về thể thức bầu
cử, tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi của Tổng thống và Phó Tổng
thống)
Điều
III: Quyền lực tư pháp (Quy định về Tòa án
Liên bang Tối cao và một số tòa án cấp dưới do Quốc hội lập ra, và về tội phản
quốc)
Điều
IV: Quan hệ giữa các bang
Điều
V: Quá trình sửa đổi Hiến pháp
Điều
VI: Nợ quốc gia, hiệu lực Hiến pháp và các đạo luật của Hợp chúng
quốc đối với các bang
Điều
VII: Phê chuẩn Hiến pháp
Danh
mục trên cho thấy, Hiến pháp Mỹ không lan man ra
nhiều lĩnh vực, mà tập trung vào việc thiết lập và kiểm soát hoạt động của
các cơ quan quyền lực.
Với
phương châm “đầu xuôi – đuôi lọt”, Hiến pháp Mỹ không với tới mọi cấp,
mà chỉ quy định về các cơ quan và vị trí quyền lực cấp cao nhất.
Đối
với tập thể, Hiến pháp Mỹ chỉ đề cập đến Quốc hội
(bao gồm Thượng viện và Hạ viện), Tòa án tối cao và một số tòa án cấp dưới do
Quốc hội lập ra, về mối quan hệ giữa các bang.
Đối
với cá nhân, ngoài mấy quy định chung cho “các quan chức dân sự”, Hiến pháp Mỹ chỉ tập trung vào các
quy định dành cho Tổng thống, Phó Tổng thống và Nghị sĩ Quốc hội.
Tại
sao như vậy? Có lẽ các nhà lập hiến Hoa Kỳ quan niệm rằng: Hiến pháp chỉ cần kiểm soát
quyền lực ở cấp cao nhất, không cần phải can thiệp sâu hơn nữa. Các cơ quan
và vị trí quyền lực cấp cao nhất sẽ sinh ra các luật và văn bản dưới luật, cùng
với các biện pháp thích hợp để điều hành và quản lý các cơ quan và nhân viên
cấp dưới.
Việc
thu hẹp đối tượng kiểm soát của Hiến pháp, chỉ tập trung vào cấp
cao nhất, sẽ không bỏ sót đối tượng, mà ngược lại còn tăng
hiệu quả quản lý.
“Không
bỏ sót đối tượng” vì: Khi cấp cao nhất đã hoạt
động tử tế thì nó cũng bắt buộc các cấp dưới cũng phải tử tế theo. Cho nên,
chỉ cần quan sát mức độ tử tế của bộ máy quản lý cấp dưới, thì cũng có thể suy
đoán ra mức độ tử tế của lãnh đạo ở cấp cao nhất.
“Tăng
hiệu quả quản lý” vì: Nếu quy định chung chung,
cho phạm vi quá rộng, thì Hiến pháp sẽ “mất thiêng”, và các lãnh đạo thượng
đỉnh dễ quan niệm, rằng những quy định đó chỉ dành cho thần dân và các quan lại
cấp dưới, còn bản thân họ là ngoại lệ. Khi đó, lãnh đạo cấp cao nhất dễ “buông
thả”, tham nhũng và làm bao điều xấu. Nếu xảy ra như vậy, “thượng
bất chính, hạ tắc loạn”, không thể khống chế cấp dưới được nữa. Ngược lại, khi
đã quy định đích danh cho Tổng thống, Phó Tổng thống và Nghị sĩ Quốc hội,
thì không thể nhầm lẫn, không thể thoái thác được nữa. Họ chỉ còn cách là
nghiêm chỉnh chấp hành.
Việc hạn
chế đối tượng và khu vực điều tiết (trực tiếp) trong khuôn khổ tương
đối hẹp còn có thêm một tác dụng rất tích cực, đó là giúp kéo dài tuổi
thọ của hiến pháp. Bởi lẽ, càng dàn trải ra quá nhiều đối tượng và
lĩnh vực, thì càng hay phải sửa đổi hoặc viết mới hiến pháp, để
đáp ứng những thay đổi của thực tế cuộc sống. Đó chính là một trong
những lý do khiến các hiến pháp đã được sinh ra ở Việt Nam đều “đoản thọ”.
Hiến pháp Mỹ không đề cập một cách
chung chung những điều cao siêu, mà quy định rất cụ thể và rất thực
dụng. Chẳng hạn, để đảm bảo cho bộ máy Nhà nước hoạt động ổn định, Hiến pháp Mỹ quy định:
“Ngay
khi nhóm họp sau kỳ bầu cử đầu tiên, các Thượng nghị sĩ sẽ được chia đều thành
ba nhóm. Thượng nghị sĩ nhóm một sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ hai,
Thượng nghị sĩ nhóm hai sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ tư, Thượng nghị
sĩ nhóm ba sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ sáu. Sao cho, cứ sau
hai năm, sẽ bầu lại một phần ba số Thượng nghị sĩ.” (Trích Điều I, Khoản 3)
Như
vậy, tuy nhiệm kỳ thông thường của Thượng nghị sĩ là 6 năm, nhưng không phải cứ
6 năm là bầu lại một lần và thay đổi một thể, mà cứ 2 năm lại bầu một
lần và mỗi lần chỉ thay một phần ba số Thượng nghị sĩ. Nhờ thế, hoạt động
của Thượng viện không bị trì trệ hay gián đoạn bởi các kỳ bầu cử, và sau mỗi
lần bầu cử nó không bị rơi vào trạng thái có quá nhiều “lính mới” (tức
là có quá nhiều những người còn thiếu kinh nghiệm về hoạt động trong Thượng
viện).
Một
ví dụ khác:
“Phó
tổng thống Hợp chúng quốc là Chủ tịch Thượng viện, nhưng không
được biểu quyết, trừ trường hợp số phiếu hai bên bằng nhau.” (Trích Điều I, Khoản 3)
Với
một quy định đơn giản như vậy, Thượng viện sẽ chẳng bị rơi vào tình thế không
thể đưa ra kết luận do số phiếu chống bằng số phiếu thuận, mà luôn luôn có thể
quyết định dựa trên quá bán (đa số phiếu).
Qua
đó ta thấy rằng: Hiến pháp Mỹ được xây dựng
để tổ chức và kiểm soát quyền lực ở cấp cao nhất trong bộ máy quản lý Nhà nước.
Hiến
pháp với vai trò phòng chống tham nhũng
Tham
nhũng là nguy cơ thường trực đối với bộ máy cầm quyền. Nó hoành hành nhiều nhất
tại các chế độ lạc hậu và độc tài. Chính quyền càng tham nhũng thì càng cư xử
tệ hại với Nhân dân. Điều đó gây phản cảm và bức xúc đến mức, để lấy lòng Nhân
dân thì các trùm tham nhũng cũng lớn tiếng tuyên bố chống tham nhũng. Vì thế,
nhiều khi chống tham nhũng chỉ là màn kịch trớ trêu, và lãnh đạo càng hô hào
chống tham nhũng thì càng lộ diện là diễn viên tồi.
Để
bộ máy quản lý Nhà nước có thể hoạt động một cách tử tế và thực sự vì Nhân dân,
các nhà lập hiến Mỹ đã huy động cả hiến pháp vào việc phòng chống tham nhũng.
Vấn đề là, hiến pháp không thể cấm đoán tràn lan và đề cập quá rộng. Vậy họ đã
lựa chọn những đối tượng và hành động tham nhũng nào để ngăn ngừa trong Hiến pháp?
Nhằm
hạn chế khả năng các Nghị sĩ “tự phục vụ”, bằng cách bỏ phiếu
tán thành thiết lập hay tăng thù lao cho các cương vị công chức mà bản thân
muốn được bổ nhiệm, và hạn chế việc Chính phủ cài người vào Quốc hội, Hiến pháp Mỹ quy định:
“Trong
nhiệm kỳ của mình, không một Thượng nghị sĩ hay Hạ nghị sĩ nào được bổ
nhiệm vào bất kỳ cương vị công chức nào của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nếu
nó được lập ra hay nếu thù lao dành cho nó được tăng trong nhiệm kỳ đó;
và không một ai đang là công chức của của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được
trở thành Nghị sĩ của một trong hai Viện.” (Trích Điều 1, Khoản 6)
Nhằm
hạn chế tham nhũng thông qua quà tặng, lương bổng, danh hiệu…, Hiến pháp Mỹ quy định:
“Không
tước hiệu quý tộc nào được trao bởi Hợp chúng quốc. Nếu không được sự đồng
ý của Quốc hội, không ai trong số những người đảm nhận các
chức vụ có thù lao hoặc mang tính chất danh dự của Hợp chúng quốc được
phép nhận bất cứ quà tặng, thù lao, chức vụ, hoặc danh hiệu ở bất cứ dạng nào,
do vua chúa hoặc do chính phủ nước ngoài ban tặng.” (Trích Điều I, Khoản 9)
Để
hiểu hơn ý nghĩa của quy định trên, ta ôn lại đôi chút về một số giải thưởng mà
hai vị nguyên thủ quốc gia của hai nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và CHDC Đức đã từng nhận.
Leonid Brezhnev là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ
năm 1966 và kiêm chức Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô-viết Tối cao
Liên Xô (tức đứng đầu Nhà nước Liên Xô) từ năm 1977, cho tới khi qua đời
vào năm 1982. Ông được phong Anh hùng Liên Xô 4 lần (1966, 1976, 1978, 1981).
Đó là phần thưởng và danh hiệu danh dự cao quý nhất của Liên Xô. Người được phong Anh hùng Liên Xô được nhận thêm
cả Huân chương Lênin, Huy chương Sao Vàng,
Bằng khen của Đoàn chủ tịch Xô-viết Tối cao và
một khoản tiền thưởng tương đương với một năm lương.
Erich Honecker là Tổng bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức và
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHDC Đức từ năm 1976 đến năm 1989.
Ông được trao Huân chương Các Mác 5
lần (1969, 1972, 1977, 1982, 1985). Đó là huân chương cao quý nhất của CHDC Đức, được kèm thêm khoản tiền thưởng
là 20.000 Mark. (Để so sánh: Tại CHDC Đức vào năm 1988, lương tháng
trung bình của công nhân trực tiếp sản xuất là 1.110 Mark, của thợ cả là 1.370
Mark và của giảng viên đại học là 1.477 Mark). Ông Honecker được
phong Anh hùng CHDC Đức vào năm 1987.
Bên
cạnh đó, Liên Xô đã 3 lần (1972, 1982, 1987) trao Huân chương Lênin cho ông Honecker.
Ngược lại, CHDC Đức đã trao Huân chương Các Mác (1974) và phong
tặng danh hiệu Anh hùng CHDC Đức (1976)
cho ông Brezhnev. Ngoài ra, họ còn nhận được nhiều phần thưởng khác từ trong
nước, và nhiều giải thưởng “trao đổi” với lãnh đạo các nước
trong phe xã hội chủ nghĩa.
Cuối
cùng thì CHDC Đức sụp
đổ vào năm 1990 và Liên Xô tan
rã vào năm 1991. Hơn nữa, ông Honecker bị cách chức Tổng
bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức và
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHDC Đức vào tháng 10 năm 1989,
và bị khai trừ khỏi
đảng vào tháng 12 năm 1989. Điều đó cho thấy, hai ông Leonid Brezhnev và Erich Honecker có xứng đáng
với bằng ấy danh hiệu và giải thưởng hay không.
Ví
dụ kể trên cho thấy, khi đã nắm trọn quyền lực trong tay, các nhà lãnh đạo quốc
gia khó mà tự kiềm chế, để khước từ các giải thưởng và sự vinh danh, mà bộ sậu
nịnh thần luôn chầu chực nỉ non. Liên hệ với cả vấn nạn giải thưởng và danh
hiệu đang hoành hành ở Việt Nam hiện nay, ta thấy các cha đẻ của Hiến pháp Mỹ đã nhìn xa trông
rộng biết nhường nào, khi đưa vào Hiến pháp điều cấm liên quan
đến quà tặng, lương bổng, danh hiệu và tước vị.
Ở
Việt Nam thường diễn ra cảnh cấp dưới tỉ tê với cấp trên, rằng “công
lao của anh như trời bể, mà lương bổng lại èo ọt, bất công quá chừng”. Rằng “nếu
anh bóp miệng, thì đàn em cũng bị đói lây…” Vậy là thủ trưởng “mủi
lòng”, “cả nể chiều theo ý kiến anh em”, “đành chấp
nhận” để họ làm thủ tục tăng lương liên tiếp cho mình. Chỉ đợi có vậy, các
đệ tử cũng ào ào hưởng ứng, “theo đóm ăn tàn”. Lương sếp tăng
trước, lương mình theo sau. Cũng tương tự như việc sốt sắng chạy cho sếp chút
học vị, để thêm rộng đường mà lo bằng cấp cho bản thân. Rồi rầm rộ cái phong
trào “tình cảm”, hết tết nhất đến cưới xin, phúng viếng… “Tình
cảm đi” dưới dạng phong bì kèm theo quà cáp, “tình cảm lại” dưới
dạng chữ ký. Hai bên đều có lợi, chỉ khổ cho Dân, hại cho Nước. Các nhà lập
hiến Mỹ đã đề phòng viễn cảnh “đời thường” ấy từ hơn 220 năm
trước, nên đã quy định trong Hiến pháp rằng:
“Vào
các thời điểm cố định, Tổng thống được nhận một khoản thù
lao cho công việc của mình, khoản tiền này sẽ không tăng và
cũng không giảm trong suốt nhiệm kỳ, và ông ta không được phép nhận
bất cứ một khoản thù lao nào khác của Hợp chúng quốc, hoặc của bất cứ bang nào.” (Trích Điều II, Khoản 1)
Hơn
nữa:
“Tổng
thống, Phó Tổng thống và các quan chức dân sự của Hợp chúng quốc
sẽ bị cách chức khi bị buộc tội phản quốc, tội
nhận hối lộ, hoặc những tội nghiêm trọng khác.” (Điều II, Khoản 4)
Tức
là, đối với “Tổng thống, Phó Tổng thống và các quan chức dân sự của
Hợp chúng quốc”, thì “tội nhận hối lộ” được xếp chỉ
dưới “tội phản quốc”, trên “những tội nghiêm trọng khác”,
và người “bị buộc tội” đó phải “bị cách
chức”.
Qua
quy định phòng chống tham nhũng, trong đó chỉ đích danh Tổng thống và Phó Tổng
thống, ta lại được chứng kiến một lần nữa các phương châm “đầu xuôi –
đuôi lọt”, “cụ thể” và “thực dụng”, được
quán triệt trong Hiến pháp Mỹ.
Hai
bài học có thể rút ra từ đây là:
-
Muốn thành công trong việc phòng chống tham nhũng thì trước hết phải
tập trung nhằm vào mấy vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực.
- Để
phòng chống tham nhũng ở cấp lãnh đạo quốc gia, thì chẳng công cụ pháp lý nào
tốt hơn là những quy định trong hiến pháp.
Với
những biện pháp cụ thể và tập trung vào mấy điểm huyệt quan trọng nhất, các nhà
lập hiến Mỹ đã thể hiện là họ thực tâm và rất quyết tâm chống tham nhũng. Ngược
lại, nếu lãnh đạo chỉ hô hào chung chung, mà không có biện pháp đặc
chủng dành riêng cho việc phòng chống tham nhũng ở mấy chức vụ cao nhất, thì có
lẽ họ cũng chỉ diễn kịch mà thôi.
Hiến
pháp là để bảo vệ Nhân dân
Ban
đầu, Hiến pháp Mỹ không đề cập đến các
quyền con người và các quyền công dân. Tại sao như vậy? Phải chăng các
nhà lập hiến quá quan tâm đến phía cầm quyền, mà sao nhãng phía người dân? Hoàn
toàn không phải như vậy. Đoạn sau đây, trích từ Lời mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của
nước Mỹ, có thể cho ta câu trả lời:
“Chúng
tôi khẳng định các chân lý sau đây là hiển nhiên, rằng tất
cả mọi người được sinh ra bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không thể xâm
phạm, trong những quyền ấy, có quyền Sống, quyền Tự do và quyền mưu cầu Hạnh
phúc”.
Qua
đó ta thấy, các chính trị gia hàng đầu của nước Mỹ ngày ấy, trong đó có các nhà
lập hiến, quan niệm rằng: “Quyền Sống, quyền Tự do và quyền mưu cầu
Hạnh phúc” cũng như một số quyền khác là “hiển nhiên”,
không phải bàn cãi. Tuyên ngôn Độc lập Mỹ viết
tiếp:
“Rằng để
bảo vệ những quyền ấy, các chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có
được các quyền lực chính đáng từ sự ưng thuận của Nhân dân. Rằng bất cứ khi nào
một thể chế chính quyền nào đó trở nên tiêu cực đối với mục tiêu ấy, thì quyền
của Nhân dân là thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập ra một chính quyền
mới, được thiết lập dựa trên những nguyên tắc và hình thức tổ chức quyền
lực mà họ cảm thấy có thể ảnh hưởng tốt nhất đối với An ninh và
Hạnh phúc của họ”.
Tức “Chính
phủ được lập ra”, bởi Nhân dân và được Nhân dân trao cho quyền lực, chỉ nhằm
“để bảo vệ những quyền ấy”. Cho nên, muốn bảo vệ các quyền con người,
thì Hiến pháp chỉ cần điều tiết và ràng buộc hoạt động của bộ máy
chính quyền, sao cho nó làm việc tử tế và bảo vệ “An ninh và Hạnh
phúc” của Nhân dân một cách tốt nhất. Nếu chính quyền không hoàn thành
nhiệm vụ đó, thì Nhân dân sẽ “thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và
lập ra một chính quyền mới”.
Có
nghĩa là: Tuy ban đầu Hiến pháp Mỹ không đề cập trực tiếp
đến các quyền con người, nhưng mục đích của Hiến pháp Mỹ chính là bảo vệ
Nhân dân, bảo vệ các quyền con người, vốn được coi là tồn
tại đương nhiên và độc lập với Hiến pháp.
Tuy
nhiên, không an tâm với quan niệm mặc định đó, năm 1791 các nhà lập hiến Hoa Kỳ
đã thêm 10 Điều bổ sung sửa đổi đầu tiên vào Hiến pháp Mỹ,
nhằm bảo vệ các quyền Tự do và quyền Sở hữu.
Đọc
các Điều bổ sung sửa đổi từ I đến X, ta càng cảm nhận rõ hơn quan niệm
về quyền đương nhiên. Với tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí, quyền hội họp (bao gồm cả quyền biểu tình) và quyền kiến
nghị, Hiến pháp Mỹ viết
rằng:
“Quốc
hội không được ban hành luật nhằm thiết lập quốc đạo
hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn
chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền
của Nhân dân về hội họp ôn hòa và kiến nghị Chính phủ sửa
chữa những điều gây bất bình”. (Điều bổ sung sửa đổi I)
Nghĩa
là, các quyền tự do đó không phải do Hiến
pháp “cho phép”, hay “ấn định”, hay gọi một cách văn vẻ
là “minh định”, mà chúng đã tồn tại sẵn, với tư
cách Phúc lành Tự do, được Tạo hóa ban kèm khi sinh ra Loài người.
Và Hiến pháp Mỹ chỉ
làm chức năng là cấm Quốc hội ban hành đạo luật nhằm ngăn
cản hay hạn chế các quyền đó mà thôi.
Một
điều đáng chú ý trong Hiến pháp Mỹ là
cách viết: Khi nhắc tới “quyền”, thì thường là trong ngữ cảnh “(quyền)
tự do …” (chẳng hạn: “(quyền) tự do ngôn luận”, “the freedom
of speech”), hay “quyền của Nhân dân về …” (chẳng
hạn:“quyền của Nhân dân về hội họp ôn hòa”, “the right of the people
peaceably to assemble”), chứ không phải là “có quyền …” (như
trong các văn bản pháp luật của Việt Nam). Cách viết ấy cũng thể hiện
tính “tồn tại một cách đương nhiên” của“quyền” đó. Ví
dụ:
“Không
được xâm phạm quyền của Nhân dân về an toàn cá nhân, nhà cửa,
giấy tờ và tài sản…” (Điều bổ sung sửa đổi IV)
Nếu
viết theo phong cách của Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam, thì câu trên sẽ được viết đại khái như sau:
“Mọi
người có quyền được đảm bảo về an toàn cá nhân,
nhà cửa, giấy tờ và tài sản…”
Khi
được thể hiện dưới dạng “có quyền …” như vừa rồi, thì “quyền” được
nhắc đến có thể chỉ là quyền hiến định, và nếu hiến pháp không nhắc tới thì
Nhân dân chưa chắc đã được hưởng.
Đây
là điểm khác nhau quan trọng nhất trong quan niệm về ”quyền con người”
giữa hai hiến pháp của Việt Nam và của Mỹ.
Ngược
lại với kiểu dùng hiến pháp để ban phát, Hiến pháp Mỹ không
chỉ thể hiện tính đương nhiên của các quyền con người, mà còn nhấn
mạnh thêm rằng:
“Việc
liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp
những quyền khác của người dân.” (Điều bổ sung sửa đổi IX)
“Những
quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không bị ngăn cấm đối với
các bang, thì thuộc về các bang cụ thể hoặc thuộc về Nhân dân”. (Điều bổ sung sửa đổi X)
Cho
đến nay, Hiến pháp Mỹ có
thêm 27 Điều bổ sung sửa đổi. Kể cả văn bản gốc lẫn 27 Điều bổ sung sửa đổi, Hiến pháp Mỹ chỉ
tập trung vào việc ràng buộc bộ máy công quyền, để bảo vệ các quyền cũng như
quyền lợi của người dân.
Đặc
biệt, không có bất cứ điều khoản nào được đặt ra theo hướng hạn chế quyền con
người, hay hạn chế quyền công dân, hoặc giao nghĩa vụ cho công dân.
*
* *
Tóm
lại: Các nhà lập hiến Mỹ đã thay mặt Nhân dân
Mỹ làm ra Hiến pháp Mỹ,
và Nhân dân là chủ thể của Hiến pháp ấy. Điều
đó không chỉ thể hiện qua tuyên bố trong Lời nói đầu,
mà nhất quán trong toàn bộ nội dung của nó. Với
mục tiêu bảo vệ quyền con người và quyền công dân, Hiến pháp Mỹ hoàn
toàn không đưa ra đòi hỏi nào đối với người dân, mà chỉ tập trung vào việc tổ
chức và khống chế bộ máy Nhà nước. Tức là Nhân dân Mỹ xây dựng Hiến pháp Mỹ, không
phải để ràng buộc chính mình, mà nhằm ràng buộc Nhà nước, để Nhà nước làm tốt
nhiệm vụ phục vụ và bảo vệ Nhân dân.
Chỗ
đứng của Nhân dân trong Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là
như vậy.
Phải
chăng, nhờ vậy mà nguồn năng lượng vô biên của Nhân dân được giải phóng, để hợp
lực tạo nên sức mạnh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ?
Trên
đây chỉ là mấy nhận xét tản mạn về Hiến pháp Mỹ, mang
tính hàn lâm, lý thuyết và độc lập với thực tiễn cuộc sống. Đó là kết quả
của những quan sát và suy luận cá nhân, dựa trên lời văn của
bản Hiến pháp Mỹ.
Chúng không nhằm để xu nịnh ai, bởi các tác giả của Hiến pháp Mỹ đã
về cõi vĩnh hằng từ hơn trăm năm trước; cũng chẳng nhằm để tôn vinh riêng một
dân tộc hay một chủng tộc nào, vì mọi dân tộc và mọi chủng tộc trên trái đất
này đều có người của mình đã và đang chung tay xây dựng Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Không
phải ngẫu nhiên mà Tuyên ngôn Độc lập khai
sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được mở đầu bằng đoạn bất hủ về quyền con
người, được trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của
nước Mỹ.
Chắc
hẳn, thuở ấy, năm 1945, những người thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã không nhìn nhận Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ như
sản phẩm chính trị của một cường quốc đối địch, mà coi nó thuộc vào tinh
hoa văn hóa chung của Loài người, và mọi người sống trên trái đất này đều
có quyền chia sẻ và tận hưởng.
Hy
vọng, bây giờ, 68 năm sau, chúng ta cũng có được tinh thần coi trọng
tinh hoa nhân loại, để mở lòng tìm hiểu và học hỏi Hiến pháp Mỹ và hiến pháp của các
cường quốc khác, gom góp thêm kinh nghiệm cho việc sửa đổi hay viết lại
Hiến pháp nước nhà.
Câu
hỏi đọng lại là: Bao giờ thì Nhân dân ta có được chỗ đứng tương tự … trong
Hiến pháp Việt Nam?
Hà
Nội, ngày 14/02/2013
Cùng
tác giả:
Nguồn: Blog Hoàng Xuân Phú
1 còm mà mình tâm đắc:
Xo Viet đã nói
Thưa GS, ngày nào tôi
cũng vào trang của GS để tìm đọc, có lẽ đây là trang mạng mà tôi khâm phục nhất
cả về tư tưởng và cách viết đầy tính triết học logic của GS. Khi đọc thông tin
tiểu sử của GS tôi mới biết GS là nhà toán học. Thế mới biết tại sao cách mạng
Pháp lại có nhiều nhà toán học tham gia lãnh đạo thế. Tôi tự hỏi, tại sao Đảng
và nhà nước lại không mời những người như GS vào việc viết hiến pháp, một sự
lãng phí ghê gớm mà sau này lịch sử sẽ không tha thứ cho thể chế hiện tại.
Mong được đọc nhiều bài của GS hơn nữa, và mong GS bền chí, vì tôi tin rằng họ sẽ không để GS viết mãi thế đâu!
Nếu hiến pháp Việt nam được viết theo tinh thần và tư tưởng như GS đã phân tích thì nước ta sẽ cường thịnh biết bao,dân ta sẽ hạnh phú biết bao tôi không biết mình sẽ có ngày nhìn thấy ngày đó không, nhưng tôi tin tưởng sâu sắc rằng con tôi sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đó.
Mong được đọc nhiều bài của GS hơn nữa, và mong GS bền chí, vì tôi tin rằng họ sẽ không để GS viết mãi thế đâu!
Nếu hiến pháp Việt nam được viết theo tinh thần và tư tưởng như GS đã phân tích thì nước ta sẽ cường thịnh biết bao,dân ta sẽ hạnh phú biết bao tôi không biết mình sẽ có ngày nhìn thấy ngày đó không, nhưng tôi tin tưởng sâu sắc rằng con tôi sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét