Người dịch: Đan Thanh (11-7-2012)
Thành phố Hồ Chí Minh
– Tại cái nơi đã từng là một trong những thị trường đang nổi lên sôi động nhất
châu Á, Nguyen Van Nguyen chỉ nhìn thấy phía trước là bầu trời ảm đạm. Kể từ
năm 2008, công ty của ông ở thủ phủ kinh tế miền nam Việt Nam đã trải qua hai lần
lạm phát rất đột ngột, đạt đỉnh vào tháng 8-2011 ở mức 23% – là mức lạm phát
cao nhất châu Á vào thời điểm đó. Giờ đây, đề tự bảo hiểm trước rủi ro giá cả,
ông chỉ nhận những đơn đặt hàng nhỏ từ nước ngoài cho nhà máy của mình – Bình
Minh – nhà máy sản xuất mành trúc ở TP.HCM, từng một thời thịnh vượng. Ông bảo
rằng khách hàng ở Australia, châu Âu, và Mỹ đều đã giảm bớt số đơn đặt hàng,
sau khi nhu cầu toàn cầu suy thoái. Chi
phí sản xuất trong ngành đã tăng xấp xỉ 30%, trong khi khách hàng chỉ còn sẵn
sàng trả thêm chừng 10% nữa – theo ông Dang Quoc Hung, phó chủ tịch Hiệp hội
Thủ công Mỹ nghệ và Đồ Gỗ ở TP.HCM. Ông Nguyen cũng thuê ít công nhân hơn cho
mùa cao điểm là những tháng hè, và giảm lương của họ từ 200USD xuống còn khoảng
120USD/tháng. “Chúng tôi chỉ có thể làm chầm chậm thôi, mọi việc bây giờ khó
khăn lắm” – ông than vãn như vậy hồi cuối tháng 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam
muốn các nhà đầu tư nhìn nhận những trường hợp như của ông Nguyên chỉ đơn giản
là tác động tức thời ở địa phương của suy thoái kinh tế toàn cầu, chứ không phải
là một sự suy yếu đi của cả hệ thống. Trong
hai thập niên kể từ khi Đảng thiết lập cải cách kinh tế vào năm 1986, tăng trưởng
GDP hàng năm đạt mức trung bình ấn tượng 7,1%. Quả thật, bốn năm về trước, Việt
Nam có vẻ như là câu chuyện thành công tiếp theo ở châu Á. Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, các
nhà lãnh đạo của đất nước này cam kết sẽ còn làm tốt hơn, đẩy nhanh tốc độ một
tiến trình khổng lồ – tái cơ cấu và tư hữu
hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn tốn kém của họ – tiến trình này được gọi
tránh đi là “cổ phần hóa”. Quỹ Tiền tệ Quốc
tế hồi năm 2007 dự đoán rằng, một trong các kết quả của việc gia nhập WTO là nhập
khẩu rẻ hơn, có thể kìm giữ lạm phát, và cải cách cơ cấu có thể san bằng sân
chơi giữa các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và sở tại. Nhưng tại chuyến thăm của
bà Hillary Clinton tới Hà Nội vào đầu tuần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị
buộc phải rơi vào thế phòng vệ, phải hứa hẹn các điều kiện ưu đãi cho giới đầu
tư nước ngoài, khi ông cố gắng duy trì “phép màu Việt Nam”.
Trong thập niên vừa
qua, tiền công lao động tăng lên ở Trung Quốc đưa đến kết quả là những ngày họ
đóng vai trò “công xưởng của thế giới” không còn bao lâu. Một Việt Nam ổn định,
với lực lượng lao động trẻ tuổi và rẻ tiền, cơ sở hạ tầng tiện lợi, dường như
là sự lựa chọn hợp logic tiếp sau Trung Quốc. Đầu tư nước ngoài tràn vào trong
suốt những năm giữa thập niên 2000, với vốn ròng tăng hơn ba lần, đạt 9,6 tỷ
USD vào năm 2008 so với hai năm trước đó. Việt Nam là “con hổ châu Á tiếp theo
đang thành hình”, Goldman Sachs bảo vậy. Ông Edmund Malesky, một nhà kinh tế
chính trị ở ĐH California, San Diego và chuyên sâu nghiên cứu về Việt Nam, nói:
“Các nhà đầu tư nước ngoài không quan tâm đến năng lực điều hành của chính phủ
hay là chính sách. Họ chỉ bị thu hút bởi động lực là tiền công lao động rẻ”.
Nhưng rồi té ra phớt lờ chính trị lại là một sơ suất tốn
kém. Rất ít doanh nhân dự đoán được tình hình Việt Nam năm 2012: một đất nước
phải vật lộn với đồng nội tệ yếu, lạm phát, quan liêu, chủ nghĩa tư bản thân hữu
dẫn đến lãng phí hàng tỷ USD, và là đất nước có một chính phủ ra các quyết định
như xây cảng, xây đường ở những nơi rất kỳ cục mà hầu như không có giá trị kinh
tế.
Mọi thứ bắt đầu đi xuống
khi Việt Nam khởi động một chương trình mở rộng tín dụng nội địa, trị giá 100 tỷ
USD, từ năm 2007 tới năm 2010. Do cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, chương trình
càng được tăng tốc. Thay vì hướng đến các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ lại
chuyển các quỹ tới tay những doanh nghiệp nhà nước có mối quan hệ về chính trị.
Các đơn vị đó sử dụng vốn này để bành trướng mạnh mẽ vào những lĩnh vực ngoài
ngành nghề chuyên môn của họ, tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về nguồn lực và dẫn
đến lạm phát. Sẵn lắm tiền mặt, họ đã có thể loại bỏ những đối thủ cạnh tranh
nhỏ hơn nhưng lại hiệu quả hơn. Hãng đóng tàu quốc doanh khổng lồ Vinashin, nơi
tuyển dụng khoảng 60.000 công nhân và cai quản 28 xưởng đóng tàu, chia thành gần
300 đơn vị, gồm cả cơ sở sản xuất xe máy, khách sạn. Trước đó họ đã nhận được
thêm 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư quốc tế, trong năm 2007. Giới chức lãnh đạo hy
vọng nó sẽ là lực kéo tăng trưởng kinh tế, giống như các tập đoàn
(công-lô-mê-rát) nửa công nửa tư nhân của Hàn Quốc.
Nhưng, vào năm 2010,
Vinashin bị phát hiện là đã làm giả chứng từ tài chính, và tập đoàn gần như sụp
đổ vì khoản nợ trị giá 4,4 tỷ USD, cả với chủ nợ trong nước lẫn quốc tế. Con số
này tương đương gần 5% GDP. Cuối cùng Vinashin vỡ nợ một khoản 400 triệu USD của
Credit Suisse. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người hậu thuẫn cho Vinashin bởi đó
là dự án ưa thích của ông, dự án trung tâm của nền kinh tế do nhà nước điều hành
– buộc phải xin lỗi Quốc hội trong một phiên tự phê bình rất đau đớn. Các đối thủ của Dũng, khi tìm cách bảo vệ lợi
ích riêng của công ty mình và chỗ đứng chính trị của mình, đã tìm ra con dê tế
thần: Tháng 3, chính quyền kết án 8 nhân viên điều hành. Nhưng thay vì đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa nhiều hứa hẹn
mà chậm chạp thê thảm, được khởi động suốt từ những năm 1990, thì chính quyền
giấu nhẹm mọi sự thất bại của họ.
Chính phủ bắt đầukiểm
soát thiệt hại, từ chối bảo trợ cho khoản 400 triệu USD vay từ Credit Suisse
trong khi Vinashin vẫn không chịu cởi mở thông tin với giới chủ nợ châu Âu. Phản
ứng trước khủng hoảng, Moody hạ điểm tín dụng chủ quyền của Việt Nam một điểm,
từ B1 xuống Ba3, đánh dấu “rủi ro tín dụng cao” dưới điểm về đầu tư.
Theo một số biên tập
viên ở vài tờ báo quốc doanh, được phỏng vấn năm 2011, thì các vụ sụp đổ tương tự Vinashin khác cũng đã xảy ra, nhưng mạng lưới
mánh mung bí mật cho phép họ che giấu sổ sách chứng từ thua lỗ trong nhiều năm.
Vào tháng 5-2012, một cuộc điều tra của chính phủ cho thấy tập đoàn đóng tàu quốc
doanh Vinalines đã vỡ nợ đối với 4 khoản nợ, trị giá 1,1 tỷ USD, và nợ lũy tiến
2,1 tỷ USD, gấp hơn bốn lần tài sản của họ. Kể từ tháng 2, đã có 4 nhân viên điều
hành bị bắt vì quản lý yếu kém nguồn lực nhà nước; trong khi đó thì chính quyền
đang truy nã vị cựu chủ tịch của hãng này (đã bỏ trốn).
Giới đầu tư ngoại quốc,
đối diện với chi phí lao động và nguyên vật liệu tăng cao, bắt đầu lo sợ rằng
Việt Nam đang mất đi lợi thế giá thấp. Bốn nhà đầu tư nước ngoài than phiền
trong các cuộc phỏng vấn diễn ra hai năm qua, rằng các doanh nghiệp quốc doanh đã lạm dụng địa vị “người gác cổng trong
nghề” có mối liên hệ mật thiết tới chính phủ. “Họ là ung nhọt” – môt luật sư
kinh doanh người Mỹ ở TP.HCM nói. “Chẳng ai muốn dây dưa với đám ấy”.
Trong khi giới chức Việt
Nam đang cố gắng đảm bảo với các nhà đầu tư rằng thời điểm tồi tệ nhất đã qua,
thì một báo cáo kiểm toán nhà nước phát hành hồi đầu tháng 7 tiết lộ rằng ít nhất
30 doanh nghiệp nhà nước lớn khác cũng đang mắc những gánh nợ rất đáng lo ngại.
Vấn đề sâu xa hơn nữa là ở Việt Nam,
không giống như ở Trung Quốc, giới tinh hoa trong Đảng Cộng sản không ảo tưởng
gì về chuyện chia lợi lộc với tư nhân, đặc biệt là doanh nhân nước ngoài. Ở
Trung Quốc, nhìn chung đảng giữ tính cạnh tranh của thị trường bằng cách bảo vệ
doanh nghiệp tư nhân, cải thiện chất lượng điều hành của chính phủ, tư nhân hóa
khoảng 90.000 doanh nghiệp trị giá hơn 1,4 nghìn tỷ USD từ năm 1998 đến năm
2005, và gần đây là tiến hành thanh trừng các tay mao ít mới như Bí thư Tỉnh ủy
Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Giới lãnh đạo Việt Nam
thì vẫn chưa xác định được phải sửa chữa, điều chỉnh nền kinh tế của mình như
thế nào mà không phải từ bỏ một số hình thức kiểm soát về chính trị nào đó – một
bước mà họ không muốn tiến hành.
Thay vì làm sạch đống mạng nhện giữa các doanh nghiệp nhà
nước với những chính trị gia bảo hộ cho chúng, thì các tay chơi quyền lực lại tổ
chức nhiều chiến dịch chống lại tầng lớp doanh nhân mới giàu (nouveau riche)
kiêm đại biểu quốc hội. Hồi cuối tháng
5, Quốc hội bỏ phiếu với tỷ lệ 96% thuận để bãi nhiệm bà Đặng Thị Hoàng Yến – một
trong chỉ một số rất ít trùm kinh doanh có chân trong cơ quan lập pháp mà không
phải đảng viên – vì tội khai man lý lịch.
Thật ra tội đúng của bà
Yến là: liên tục kêu gọi đối xử bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân, vốn dĩ chiếm
gần nửa nền kinh tế. “Dọn sạch cả căn nhà
thì quá nhiều so với khả năng xử lý của hệ thống” – ông David Brown, một
nhà cựu ngoại giao của Mỹ tại Hà Nội, nhận xét.
Tới tháng 6, việc
chính phủ thắt chặt tín dụng góp phần hạ lạm phát từ 23% tháng 8 năm ngoái xuống
còn 6,9%. Chủ sở hữu các nhà máy nhỏ như nhà máy của ông Nguyên, than thở rằng vấn đề bây giờ là làn sóng tín dụng dễ dãi
đã làm tăng nguy cơ khủng hoảng ngân hàng. Sau hai vụ sụp đổ doanh nghiệp
nhà nước rất nặng nề, chính phủ đã đi đến lúc
thừa nhận rằng hệ thống tài chính có vấn đề gì đó sai căn bản. Giám đốc Ngân hàng trung ương của Việt Nam, ông Nguyễn
Văn Bình, có nói hồi đầu tháng 6 rằng khoảng 10% nợ của các ngân hàng Việt Nam
là nợ xấu. Thay vì cải cách nền kinh tế,
chính phủ đang đề xuất nhiều thứ cũng tương tự như cũ: Một kế hoạch là thành lập
cơ quan quản lý tài sản quốc gia, với 4,8 tỷ USD để thanh toán nợ. Nhưng điều
đó có nghĩa là lập ra một cơ quan hành chính quan liêu mới, nằm kẹt trong mạng
lưới bảo trợ giữa các thành viên cao cấp trong đảng, ngân hàng và doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cũng đã than phiền về gánh nặng quá lớn do nạn
quan liêu gây ra, và nhiều nhà đầu tư giờ đây bắt đầu nghĩ đến việc chuyển sang
Indonesa, Bangladesh và Myanmar – Denny Cowger, một luật sư làm cho Duane Morris, công ty luật của Mỹ có
văn phòng ở Hà Nội và TPHCM, nói. Trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn
đàn Kinh tế Thế giới, năm 2011 và 2012, Việt Nam tụt sáu bậc xuống vị trí 65,
do luật lệ phiền toái, lạm phát,
thâm hụt ngân sách, và cơ sở hạ tầng không tốt (báo cáo đánh giá cao Việt Nam
do có thị trường lao động tương đối hiệu quả và có “tiềm năng đổi mới sáng tạo”).
Trong khi đó, khu vực
nhà nước tiếp tục ngốn tới 40% GDP. “Vấn đề chính yếu là Việt Nam phải tiến
hành một số cải cách kinh tế về căn bản trong nước, để duy trì được tính cạnh
tranh” – ông Carl Thayer, giáo sư danh dự
tại ĐH New South Wales, nói. “Có nhiều khả năng là
giới lãnh đạo Việt Nam sẽ sử dụng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như lời
biện hộ cho những thứ tương tự”.
Nguồn: Foreign Policy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét