cũng
chỉ là con dân
mà
xưng là thiên tử
Có
lẽ không điều khoản nào của Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lại được bàn cãi nhiều
bằng Điều 4. Một bên thì cương quyết bảo lưu, bên kia lại muốn loại bỏ nó ra
khỏi Hiến pháp. Nội dung mà hai bên thường đề cập là duy trì hay không
việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Nhưng đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Để tìm hiểu thêm phần tiềm
ẩn, ta hãy đọc lại Điều 4 Hiến pháp 1992 và cùng nhau suy ngẫm:
“Đảng
cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội.
Mọi
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
“Đội
tiên phong” là gì vậy? Nghe mãi đâm quen, thấy oai
oai, nhưng thực ra nó là cái gì? Trong ngôn ngữ thông dụng, cái từ này thường
chỉ “đạo quân ở vị trí đi đầu để ra mặt trận”. Thời xa xưa, khi còn
đánh nhau bằng cơ bắp và vũ khí thô sơ, cả đạo quân ngàn vạn người cũng chỉ
trông cậy vào võ nghệ của mấy vị tướng đầu quân, thì cả tướng lẫn quân
của “đội tiên phong” cũng chỉ là thuộc hạ để nhà vua sai bảo.
Ngày nay, lãnh đạo cao nhất lại càng cố thủ ở hậu phương, chứ không “tiên
phong” ra mặt trận. Nếu vậy thì oai cái nỗi gì, mà lại gán cho
đảng cái cương vị hạng hai, hạng ba, mà đôi lúc còn bị dùng để “thí tốt”?
Nếu
cố gán cho từ “đội tiên phong” nội dung “thành phần ưu
tú, đóng vai trò đầu đàn, đưa đường chỉ lối”, thì lại nảy sinh câu
hỏi: Một đảng mà đa số đảng viên và hầu hết lãnh đạo cấp cao đều không
phải là công nhân, thì có thể coi là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”
hay không? Người của giai cấp công nhân – vốn được lý luận chính thống
của ĐCSVN ngợi ca là ưu tú và cách mạng nhất – đi đâu cả, mà lại để cho
cái hội thuộc giai cấp hay tầng lớp kém tiến bộ hơn xông vào choán hết “đội
tiên phong” của mình?
Không
chỉ được mệnh danh là “đội tiên phong”, ĐCSVN còn được coi là “đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc”. Tại sao lại ghi những thứ đó vào Hiến pháp? Hiến
pháp là văn bản pháp lý gốc của cả Nước, của toàn bộ Nhân dân, để hiến
định các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, chứ đâu phải là cuốn sử ca
của riêng ĐCSVN để ghi vào đó những lời tự phụ?
Vấn
đề đáng bàn hơn là: Liệu những khẳng định kiểu đó có đúng hay không? Dù
hào phóng giả định rằng hiện tại chúng đang đúng, thì lấy gì để đảm bảo
rằng trong tương lai chúng vẫn còn đúng? Đã là Hiến pháp
thì phải có hiệu lực lâu dài. Cho dù không tin vào sức sống của sản phẩm do
mình tạo ra, thì chắc hẳn các tác giả Hiến pháp cũng hy vọng rằng nó
sẽ tồn tại được vài chục năm. Vậy thì tại sao lại tùy
tiện khẳng định hay liều lĩnh bảo lãnh phẩm giá của cả đội ngũ cầm quyền mấy
mươi năm sau, những người mà các tác giả Hiến pháp không thể đoán trước sẽ là
ai, sẽ cầm quyền thế nào và trong hoàn cảnh ra sao?
Cho
đến nay, biết bao sự kiện bí ẩn và hành xử khó hiểu đã và đang xảy ra, đặc biệt
là trong quan hệ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với tệ nạn tham
nhũng và cướp đất tràn lan, khiến nhiều người phải đặt ra câu hỏi: ĐCSVN
(nói chính xác hơn là lãnh đạo của ĐCSVN) có còn trung thành với quyền lợi của
Nhân dân và Dân tộc nữa hay không? Đối với không ít người thì câu hỏi
cũng chính là câu trả lời. Nếu muốn, giới cầm quyền có thể thông qua hành động
thực tế để xóa bỏ nghi ngờ và chứng minh điều ngược lại. Thế nhưng, tại
sao lại lạm dụng Hiến pháp để “công chứng” cho cái phẩm hạnh đang bị nghi vấn,
và bắt Nhân dân phải mặc nhiên thừa nhận lòng trung thành của giới cầm quyền
hôm nay và cả mai sau?
Giả
sử ĐCSVN luôn thực sự là “đội tiên phong…” và “đại
biểu trung thành…”, thì điều đó đã đủ để Nhân dân trao quyền “lãnh
đạo Nhà nước và xã hội” hay chưa? Vẫn còn có nhiều “đại biểu
trung thành” khác, thì tại sao lại chỉ trao quyền lãnh đạo cho
một đại biểu duy nhất? Hơn nữa, giữa quyền lãnh
đạo và tính tiên phong cộng với lòng trung
thành là một khoảng cách xa vời, hai cái đó không nhất thiết là hệ quả
của nhau. Chẳng hạn như Cún con, khi ra đường thì hay lon ton lên trước (nghĩa
là rất “tiên phong”), và ít ai trung thành với chủ
hơn Cún, nhưng chẳng vì thế mà Cún lại được chủ trao cho quyền lãnh đạo…
gia đình. Rõ ràng, hai mệnh đề nhầm chỗ đó không đủ để biện minh
cho quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN. Ngược lại, cái “hư
hư thực thực”, “hư” đến mức bất chấp cả “thực”,
đã làm suy giảm tính nghiêm túc và tính hợp lý của Hiến pháp. Vậy
thì cưỡng nạp những mệnh đề vu vơ ấy vào Hiến pháp để làm gì?
*
* *
Nếu
quan niệm rằng hai đặc tính “đội tiên phong…” và “đại
biểu trung thành…” là đòi hỏi, là điều kiện cần
cho quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thì Điều 4 cần được hiệu chỉnh cho chuẩn xác về mặt
lô-gíc, chẳng hạn như sau:
“Đảng
cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, … thì mới là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”.
Hoặc
hoán vị đoạn cuối lên đầu và dùng chữ “để” thay cho hai
chữ “thì mới”:
“Để là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…”
Đó
là hai phương án hiệu chỉnh lô-gíc kinh tế nhất, chỉ thêm ba hoặc bốn chữ và
giữ nguyên các thành phần khác. Kể cả trong trường hợp thừa nhận quyền lãnh đạo
của ĐCSVN như một thứ đương nhiên, bất chấp hiện trạng của đảng, thì cũng nên
viết lại như sau:
“Đảng
cộng sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng phải là đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.
Dù
chọn phương án nào thì cũng cần thêm chữ “phải“, để
nhấn mạnh rằng: Đó là đòi hỏi mang tính pháp lý mà đảng cầm quyền phải
thực hiện. Liệu giới cầm quyền có muốn viết như vậy hay không? Chắc là
không! Vậy thì nội dung về “đội tiên phong…” và “đại
biểu trung thành…” trong Điều 4 không phải là đòi hỏi, mà mang ý
nghĩa ”thừa nhận một thực trạng đã, đang và sẽ mãi tồn tại”, tức
là một hình thức “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”.
Vấn
đề tương tự được đặt ra với khoản tiếp theo của Điều 4, viết rằng:
“Mọi
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Đây
có phải là một yêu cầu, một đòi hỏi hay không? Nếu
là đòi hỏi thì cần bổ sung một chữ “phải“ như
sau:
“Mọi
tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”.
Câu
hỏi nảy sinh là: Tại sao lại thiếu chữ “phải” tại vị trí quan
trọng như vậy? Có phải do vô tình hay không?
Muốn
hiểu được ý tứ của các tác giả, hãy điểm mặt 39 chữ “phải“ trong Hiến pháp 1992 để nhận ra rằng: Từ “phải“ là
một trong những thuật ngữ đặc trưng trong Hiến pháp, thường được dùng để chỉ những
điều bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ:
“Điều 51 … Công
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã
hội…”
“Điều 76 Công
dân phải trung thành với Tổ quốc…”
“Điều 77 … Công
dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng
toàn dân”
“Điều 100 Đại
biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…”
“Điều 122 Đại biểu Hội
đồng nhân dân có quyền chất vấn… Người bị chất vấn phải trả
lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định…”
Tại
sao không viết tương tự, mà lại tránh dùng chữ “phải“ trong Điều 4? Nếu quan niệm rằng chỉ cần viết
“Mọi
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
là đã hàm chứa chữ “phải“,
do đó có thể lược bỏ nó, thì sao không bỏ nốt chữ “phải“ trong
những trường hợp cũng “đã hàm chứa” tương tự? Chẳng hạn, sao
không bỏ chữ “phải“ trong hai điều khoản sau đây:
“Điều 115 … Những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận
tập thể và quyết định theo đa số”.
“Điều 124 … Khi quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo
luận tập thể và quyết định theo đa số…”
Để
hiểu hết thâm ý chứa trong Điều 4, nên so sánh nó với điều khoản sau:
“Điều 12 … Các cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Vâng,
không chỉ “các… tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân”, mà cả “các cơ quan Nhà nước” đều “phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”. Nhưng ĐCSVN và các tổ chức
của đảng thì không bị liệt kê trong Điều 12, tức là chúng không nằm
trong diện “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp, pháp luật”.
Điều 4 chỉ viết là: “Mọi tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Khi đã ngăn chặn
việc ban hành luật về các đảng chính trị hay luật dành
riêng cho ĐCSVN, thì chẳng hề tồn tại “khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật” nào có thể khống chế và ràng buộc đảng. Vậy là ĐCSVN được mặc
sức tung hoành. Hơn nữa, giả sử có ràng buộc pháp luật nào
đó liên quan, thì ĐCSVN cũng không nhất thiết phải tuân
theo, bởi vì câu hiến định “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” không nhất thiết là một đòi
hỏi, mà ngược lại, rất có thế là một hình thức“công chứng bất chấp hiện
trạng của nguyên bản”, cũng tương tự như việc “công chứng” cho
đặc tính “đội tiên phong…”và “đại biểu trung thành…” mà
thôi.
Hẳn
là đạo diễn của Hiến pháp 1992 đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, và cố tình
không cho “diễn viên” tên “phải“ lạc
vào “màn kịch” Điều 4, để tạo ra một “hoạt cảnh thực thực hư hư”, “nói
dzậy mà không phải dzậy”. Cái tinh vi ấy được kế thừa trọn vẹn
trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải
để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013) và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, ngày 17/05/2013). Chưa thỏa mãn
với đặc quyền vô biên đã có, người ta đã sửa câu “Mọi tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
trong Hiến pháp 1992 thành “Các tổ
chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Hạ
cấp từ chữ “Mọi” xuống chữ “Các”, phải chăng
là cố chừa ra thế lực bất khả xâm phạm? Tuy trong phương án
sửa đổi có bổ sung thêm đối tượng “đảng viên”, nhưng đó là “đảng
viên thường”. Còn các vị lãnh đạo đảng là “siêu
đảng viên”, và cá nhân họ cũng không phải là “tổ
chức”, vì vậy có thể hoàn toàn tự do “ngoài vòng Hiến pháp và
pháp luật”.
Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày
16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội
khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt
Nam) đã phân tích và kiến nghị như sau:
“Về
Điều 4, hiện nay về Đảng thì chúng ta có 3 chủ thể: Thứ nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam; Thứ hai là các tổ chức của Đảng; Thứ ba là đảng viên. Nhưng khi thiết
kế Điều 4 thì chúng ta bỏ quên chủ thể quan trọng nhất là Đảng cho nên chúng ta
chỉ quy định các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động theo khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Điều 4 tôi chỉ xin thêm một từ ở đằng trước, tức là ‘Đảng,
các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật”.
Đề
nghị của Luật sư Trương Trọng Nghĩa là rất hợp lý, để loại trừ khả năng
biện hộ rằng: “Đảng không phải là một tổ chức của Đảng, nên Đảng không
phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nếu thực tâm
muốn tôn trọng“khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, thì chẳng tiếc gì mà
không thêm chữ “Đảng” vào đầu câu như ông Nghĩa đề xuất. Thế
nhưng, đề nghị ấy đã không được chấp nhận. Phải chăng việc khước từ đó
càng thể hiện rõ hơn động cơ của đạo diễn và bản chất của Điều 4?
Một
nét mới của Điều 4 trong phiên bản 2 và phiên bản 3 của Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp là khoản sau đây được chèn thêm vào giữa:
“Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Câu
này đã khiến một số người hâm mộ đảng hân hoan ca ngợi. Nhưng thực ra có gì là
mới ở đây hay không? Thế nào là “gắn bó mật thiết”? “Gắn
bó” như hiện nay đã đủ hay đã quá “mật thiết” hay
chưa? “Phục vụ nhân dân” thế nào thì bấy lâu đã rõ, xin kiếu,
xin kiếu! “Chịu sự giám sát” hay “đành chịu
sự giám sát”? Nhân dân “giám sát” thế nào, khi mọi
chuyện tày đình đều diễn ra ở những nơi kín cổng cao tường, được súng ống bảo
vệ nghiêm ngặt? Giả sử bằng cách nào đó mà biết được chút chuyện “thâm
cung”, thì đành ngậm miệng, hay nông nổi phát ngôn, để rồi có thể bị khép
vào “tội cố ý” hay “tội vô tình làm lộ bí mật nhà nước” (Điều 263 và Điều 264 Bộ luật hình sự)? Và “giám sát” để làm
gì? Nếu được phép “giám sát”, nhưng khi phát hiện ra điều sai trái thì
cũng chỉ có thể bó tay bất lực và thêm ấm ức, thì “quyền giám sát đảng”
có hơn gì so với “quyền được tò mò, nhòm ngó chuyện riêng của nhà
hàng xóm”? Thế nào là “chịu trách nhiệm trước nhân dân”? Ăn
chán, phá chán cũng chỉ cần buông một câu “xin chịu trách nhiệm” là
xong, vậy thì tội gì mà không ăn, không phá? Toàn là mỹ
từ chung chung, vô định, phù hợp với mục đích tuyên huấn, nhằm mê hoặc và ru
ngủ người đọc, chứ không thể dùng để diễn đạt các ràng buộc pháp lý.
Những
băn khoăn vừa kể chỉ có ý nghĩa khi khoản mới bổ sung vào Điều 4 là đòi
hỏi mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Nhưng lấy gì để đảm bảo rằng đó thực
sự là đòi hỏi, chứ không phải là tái diễn hình thức “công
chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”? Nếu quả là đòi hỏi,
thì cần thêm bốn chữ “phải“ như sau:
“Đảng phải gắn
bó mật thiết với nhân dân, phải phục vụ nhân dân, phải chịu
sự giám sát của nhân dân, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân
về những quyết định của mình”. Hoặc ít nhất cũng bổ
sung một chữ “phải“ để áp chung cho cả bốn nghĩa vụ:
“Đảng phải gắn
bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Như
vậy không phải là quá máy móc, mà cũng chỉ hiến định giống như hai điều khoản
sau đây của Hiến pháp 1992, cũng về quan hệ với Nhân dân:
“Điều 8 Các
cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
“Điều 97 …
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự
giám sát của cử tri…”
Quan
sát kỹ sẽ nhận ra sự khác nhau “tinh tế” giữa yêu cầu đối
với Nhà nước trong Hiến pháp 1992 và yêu cầu đối với ĐCSVN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Các cơ
quan Nhà nước ”phải tôn trọng nhân dân” và “lắng nghe ý
kiến… của nhân dân”, còn đảng thì không phải ”tôn
trọng nhân dân” và cũng không phải ”lắng
nghe…nhân dân”; các cơ quan Nhà nước phải “tận
tụy phục vụ nhân dân”, còn đảng thì cũng “phục vụ nhân
dân” nhưng không cần phải ”tận tụy“. Thế
cũng đã là tiến bộ vượt bậc rồi, bởi Hiến pháp 1992 còn không hề
nhắc đến quan hệ của đảng đối với Nhân dân.
Có
lẽ để “cởi trói” cho Nhà nước, nên “Các cơ quan Nhà
nước” được giải phóng khỏi Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2:
“Cán
bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân…”
Sau
đó, không hiểu do sức ép nào mà người ta lại đành chịu để cho “Các
cơ quan Nhà nước” tái hiện trong Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3:
“Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
*
* *
Trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 và phiên bản 3, số lần xuất hiện của chữ “phải” ít
hơn so với trong Hiến pháp 1992. Vì sao như vậy? Một
số chữ “phải” biến tướng thành thuật ngữ khác,
như “có trách nhiệm”, “có nghĩa vụ”…
Chẳng hạn, đoạn
“công
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã
hội“ tại Điều 51 Hiến pháp 1992 biến thành đoạn “Công
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã
hội” tại Điều 20 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Một
số chữ “phải“ thì biến mất hẳn, vì một số
điều khoản được bãi bỏ. Ví dụ, quy định “Đại biểu Quốc hội phải dành
thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…” tại Điều 100 Hiến pháp 1992 biến khỏi cả hai phiên
bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. (Chả trách mà một số đại biểu Quốc hội say
sưa ca ngợi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp).
Có
một ưu ái đặc biệt mà “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” dành
cho Dân trong Hiến pháp 1992, đó là“vinh danh” Dân
hai lần trong mối quan hệ với pháp luật:
“Điều 12 … mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
“Điều 79 Công dân có
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật…”
Các
tác giả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 đã kết hợp
nhuần nhuyễn tính kế thừa với tính sáng tạo, và thu được kết quả tương
ứng như sau:
“Điều 8 … cá
nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
“Điều 49 Công dân có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
Trong Điều 8, từ “cá nhân” được dùng để thay
thế cho từ “mọi công dân” ở Điều 12 Hiến pháp 1992. Nghĩa là Dân vẫn
được “vinh danh” hai lần: Một lần dưới danh nghĩa “công
dân” và một lần dưới danh nghĩa “cá nhân”. “Chu
đáo” với Dân đến thế là cùng.
Trong
khi đó, họ lại “sơ suất” đánh mất hai chữ “Nhà nước” trong đòi
hỏi “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp
luật”. Quy định
“Điều 12 … Các cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…” trong Hiến pháp 1992 được sửa thành
1. Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…
3. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2.
Khoản 1 Điều 8 học theo phong cách của Điều 4 Hiến pháp 1992, không hề sử dụng từ “phải“ hay
thuật ngữ tương đương, nên cũng không rõ đó là đòi hỏi hay ghi
nhận (tức là ”công chứng”). Nếu đó là đòi
hỏi thì Nhà nước cũng chỉ cần “hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật”. “Theo” được bao nhiêu thì “theo”, chứ không
bắt buộc “phải nghiêm chỉnh chấp hành…”.
Nghĩa vụ “phải nghiêm chỉnh chấp hành…” trong
Khoản 3 Điều 8 chỉ áp vào “Cơ quan, tổ chức” chung
chung, mà thường chỉ được hiểu là “cấp dưới”. Rồi
đến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, Điều 8 chỉ giữ lại cái Khoản 1 mập mờ, còn Khoản
3 thì hoàn toàn biến mất, do đó cả “Cơ quan, tổ chức” chung chung
cũng không còn bị đòi hỏi “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật” nữa.
Chưa
hết, cái quy định
“Ủy
ban nhân dân … chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các
văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân”
tại Điều 123 Hiến pháp 1992 cũng bị xóa khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Có lẽ họ đã kịp
nhận ra như vậy cũng không ổn lắm: Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân thì không thành vấn đề, nhưng nếu bỏ cả quy định “chấp
hành… các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên”, ngộ nhỡ địa phương không
chịu nghe theo trung ương nữa thì sao? Cho nên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, họ đã đưa ra
hai phương án: Với phương án 1 thì Ủy ban nhân dân vẫn không
bị nhắc nhở là phải “chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật…”; phương án 2 khôi phục nguyên văn quy định của Điều 123 Hiến pháp 1992. Nếu phương án 1 được thông qua,
thì không chỉ các cơ quan của đảng, mà cả các cơ quan nhà nước từ trung ương
đến địa phương đều được “giải phóng” khỏi “trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật”. Còn nếu phương án 2 được thông
qua thì chỉ Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương phải “chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật” mà thôi. Dù bất
cứ phương án nào của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 được
chọn, thì công dân cũng vẫn được “chăm sóc chu đáo”, không bị
bỏ sót, bởi:
“Điều 49 Công dân có
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật…”
Hóa
ra, nghĩa vụ Nhà nước chỉ nhất thời, nghĩa vụ Dân mới vạn đại.
*
* *
Để
hiểu rõ hơn Điều 4 Hiến pháp 1992 và các phiên bản biến dạng của
nó, ta đã lan man sang một số điều khoản khác của Hiến pháp. Đấy không phải là
lạc đề, mà để có được tầm quan sát bao quát hơn, nhằm thấu hiểu hơn bản chất và
ý nghĩa của Điều 4. Phải so sánh với cách cư xử mà họ dành cho Dân,
thì mới nhận ra mức độ ưu ái mà thế lực cầm quyền dành riêng cho mình. Thế mới
biết, trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại trên đất Việt, thì
nguyên lý“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52 Hiến pháp 1992) cần được hiểu như thế nào. Vâng, “mọi
công dân đều bình đẳng…”, nhưng giới cầm quyền còn “bình đẳng hơn”,
và lãnh đạo cấp cao nhất thì tất nhiên phải được “bình đẳng nhất”.
Có lẽ vì cái không gian dân chủ xã hội chủ nghĩa quá chật hẹp, nên giới cầm
quyền phải đứng ngoài khuôn khổ pháp luật, phải đứng trên hiến pháp, để… “nhường
chỗ cho Dân”.
Các
điều khoản đã trích dẫn ở trên cho thấy: Chỗ nào thấy cần thì các tác giả Hiến
pháp đều nhớ dùng từ “phải“ hoặc những từ đồng nghĩa để
nhấn mạnh sự “đòi hỏi”. Họ chỉ cố tình ”quên” dùng
từ ”phải“ ở Điều 4 mà thôi. Nhờ thế, Hiến pháp trao cho ĐCSVN quyền lực lãnh đạo
tối cao vô biên, nhưng lại không đòi hỏi ĐCSVN phải thực
hiện bất cứ điều gì, kể cả việc “nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
pháp luật”, như quy định ở Điều 12 đối với các thành phần còn lại của xã
hội. Hơn nữa, bất luận thực tế tốt xấu ra sao, thì ĐCSVN
cũng được “công chứng” trong Hiến pháp
là đã ”tiên phong…”, đã ”trung thành…”, đã ”hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, và đã ”gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Lối
viết lấp lửng tạo cho người đọc ảo tưởng rằng lãnh đạo đảng đã tự giác đặt mình
vào khuôn phép, nhưng vẫn đảm bảo cho “đấng tối cao” chẳng phải chịu bất kỳ
ràng buộc pháp lý nào cả, và bất kể thế nào thì cũng vẫn được vinh danh.
Liệu
đó có phải là thâm ý của những người đã ấn định nội dung Điều 4 trong Hiến pháp 1992 và hai phiên
bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hay
không?
Điều
4 như vậy có hợp lý không?
Viết
ra và tung hô một điều như vậy có phải là tử tế không?
Chúng
ta có thể nhắm mắt mà chấp nhận một điều hiến định như thế hay không?
H.X.P.
29/08/2013
– Mừng Cháu tròn một tuổi
Cùng
tác giả: