Nhãn

30 tháng 5, 2014

849. Kiện Trung Quốc ở tòa nào?


LTS: Việc khởi kiện Trung Quốc ra các tòa án quốc tế sau khi quốc gia này có hành động xâm lấn trái luật vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông là một trong số các biện pháp đấu tranh ngoại giao và pháp lý mà Chính phủ đang xem xét tiến hành. Nhưng kiện ở tòa nào, với những nội dung lập luận gì để có thể giành được thắng lợi?


LS Tạ Văn Tài, Harvard Law School

Luật sư, Tiến sĩ Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên và hiện là nghiên cứu viên Trường Luật thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ) có bài giải thích các vấn đề này. Bài của luật sư Tài trình bày khá chi tiết những khía cạnh công pháp quốc tế liên quan đến vấn đề kiện Trung Quốc, lập luận chặt chẽ và thuyết phục.

Phần 1: Quyền của Việt Nam ở Biển Đông và lập luận của Trung Quốc

Trước khi đi vào chi tiết các biện pháp Việt Nam có thể sử dụng như đối sách thì cần ôn lại những lợi ích hay quyền lợi mà Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) dành cho các quốc gia hội viên như Việt Nam.


Giàn khoan HD-981 của Trung Quốc (chấm xanh) nằm sâu trong vùng Thềm lục địa và vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển UNCLOS (ranh giới là đường màu trắng)

Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông:

(a) chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên nhiều đảo và đá tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã tuyên bố và thực thi với sự chiếm hữu và quản lý trong quá khứ, theo đúng luật quốc tế truyền thống đã có mấy trăm năm, cho đến khi một số địa điểm bị Trung Quốc chiếm đóng bằng bạo lực; và

(b) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại Biển Đông chiếu theo UNCLOS năm 1982, gồm có quyền chủ thể (sovereign rights), quyền khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển và phi sinh vật như quặng mỏ, kim loại hay dầu khí ở đáy biển, trong một vùng dưới mặt nước gọi là Vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý tính từ mực nước thủy triều thấp nhất (gọi là đường cơ sở) (điều 56 và 57 UNCLOS), và trong vùng Thềm lục địa (Continenal Shelf) tức mặt đáy biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục địa (continental margin) hay tới khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, khi bờ lục địa không xa tới mức đó (điều 76 và 77 UNCLOS).

Hơn nữa cần nhấn mạnh là theo UNCLOS, các quyền chủ thể trong vùng EEZ và Thềm lục địa của Việt Nam là dành riêng hay chuyên độc (exclusive) của quốc gia cận duyên, cho nên Việt Nam trong vùng EEZ có chủ quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá thành những đảo nhân tạo, nghiên cứu biển, quy định bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng quyền các quốc gia khác về tự do lưu thông hàng hải, đặt dây cáp và ống dẫn dầu khí của các nước khác (điều 56,58), và trong Thềm lục địa, Việt Nam cũng đương nhiên có quyền chuyên độc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể có các hoạt động khai thác tài nguyên mà không có sự minh thị đồng ý của Việt Nam (điều 77).

Khi bàn luận về tranh chấp với Trung Quốc, ta nên nhớ luật quốc tế đã nói chắc chắn về các quyền của Việt Nam như đinh đóng cột.

Khi đem giàn khoan dến vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 của Việt Nam trong vùng Đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZVN), như trong bản đồ trên, thì trái với sự bàn luận cuộc một số người, Trung Quốc không dùng cái Đường lưỡi bò hay đường Chín đoạn (Nine-dotted Line), vốn không thể biện hộ được và bị tất cả các nước và học giả chất vấn, làm căn bản cho sự xâm lấn. Họ nói đến hai yếu tố làm cơ sở pháp lý cho quyết định của họ:

(a) Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nham hiểm mà tránh viện dẫn cái Đường lưỡi bò vô duyên đó, mà dùng lập luận về vùng EEZ của Trung Quốc, để nói là giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của các đảo Paracels của Trung Quốc” (placed completely within the waters of China's Paracels”), ám chỉ trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của Paracels do Trung Quốc quản lý (nhưng Việt Nam vẫn liên tục đòi).

Vùng EEZ và thềm lục địa đó, UNCLOS sẽ công nhận cho Paracels nếu hội đủ điều kiện quy định trong UNCLOS cho tính cách một hòn đảo (island) là con người sinh sống với nền kinh tế tự túc (nước ngọt và thực phẩm trồng tại chỗ) khi mỏm đất hay đá đó còn trong trạng thái thiên nhiên [Còn nếu không có mỏm đất hay đá nào trong Paracels đủ điền kiện là đảo, thì chúng chỉ là đá (reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có 12 hải lý của lãnh hải/territorial sea].

Việc Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa án Luật Biển, sau khi chịu đựng thương lượng với Trung Quốc 17 năm về vụ Trung Quốc chiếm đá ngầm trong vùng EEZ của Phi thì dễ hơn vụ của Việt Nam vì vùng EEZ của Việt Nam trùng lấp với vùng EEZ của quần đảo Paracels, mà nay Trung Quốc nói đang thuộc quyền quản lý của họ.

(b) Trung Quốc cũng ám chỉ là giàn khoan cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía nam (cách đảo Lý Sơn của Việt Nam chừng 120 hải lý về phía đông), tức là có vùng chồng lấn giữa EEZ của Việt Nam tính từ đảo Lý Sơn và EEZ của Trung Quốc tính từ đảo Hải Nam.

Phần 2: Việt Nam có thể kiện trước tòa án quốc tế nào?

Từ lập luận trên của hai bên, câu hỏi đầu tiên được nêu ra là Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế nào?

A) Luận cứ (a) của Trung Quốc dùng Paracels để đòi quyền khai thác cho giàn khoan phải được bác khước bằng hai vụ kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ sơ về hai điểm: (i) Paracels không phải thuộc chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) của Trung Quốc mà của Việt Nam; (ii) Paracels không có mỏm đá nào, kể cả Woody/Yongxing/Phú Lâm xứng đáng gọi là đảo/island, tức có người sống trong nền kinh tế tự túc được trong trạng thái nguyên thủy sơ khai, mà toàn là đá/reef.

Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên Paracels là thuộc luật quốc tế cổ truyền (traditional international law), theo đó Việt Nam phải minh chứng theo nguyên tắc luật quốc tế là một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành xử chủ quyền liên tục.

Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ, đã xác nhận và hành xử chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa (tuy phạm vi hành xử ở Trường Sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng hòa phản đối, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) – kế quyền của Việt Nam Cộng hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam và các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi là đã bị xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành xử chủ quyền.

Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn đề Trung Quốc nêu ra: người Trung Quốc thường viện đến công hàm hay công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và Spratleys cho Trung Quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tế công pháp bác khước điểm này và trình bày trong một bài báo khác, như là Phụ lục của bài này. Phải dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên Paracels tại tòa án có thẩm quyền về việc này là Tòa án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ).

Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế, không thể lôi Trung Quốc ra tòa ICJ được như một số kiến nghị vì chắc chắn Trung Quốc sẽ không đồng ý ra tòa mà theo nguyên tắc optional clause thì một quốc gia có đồng ý ra tòa thì tòa mới xem xét đơn kiện.

B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ là trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể bác khước căn bản pháp lý của việc Trung Quốc đặt vị trí giàn khoan, bác khước cả hai luận cứ: luận cứ (b) về khoảng cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 dặm, gây ra sự trùng lấp của hai EEZ của hai nước, cùng với luận cứ (a) về tư cách đảo/island của Paracels.

Tòa án Trọng tài Luật Biển là tòa mà Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS, Mục 2, điều 286-288. Tòa án đó có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.

Chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển mà Trung Quốc không thể dùng sự bảo lưu (reservation) khi ký Công ước là không nhận thủ tục bó buộc cho các tranh chấp về vùng chồng lấn của các EEZ giữa Việt Nam và Trung Quốc, như nói ở điểm (b), giàn khoan ở chỗ chồng lấn của hai EEZ tính từ bờ biển Việt Nam và từ Hải Nam, vì rằng Việt Nam cũng có thể xin Tòa Trọng Tài xử về biên giới biển/sea boundary, mặc dầu Trung Quốc có bảo lưu/reservation khi gia nhập Công ước về vấn dề biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch sử/historical bays; quyền kiện đó của Việt Nam là chiếu theo điều 298 đoạn 4, Công ước UNCLOS dành quyền cho quốc gia duyên hải/coastal state, quyền có thể đối kháng:

“4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố này”.

Bây giờ nói về điểm (b), vị trí giàn khoan ở nơi chồng lấn giữa EEZ Việt Nam và EEZ Trung Quốc tính từ Hải Nam: cả hai phía bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đều có thể phát sinh hai EEZ và hai Thềm lục địa, của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Nói cho Việt Nam, chúng ta có thể biện luận theo luật là: vị trí giàn khoan ở trong Thềm lục địa mở rộng của Việt Nam, và hơn nữa, ở hẳn sang phía Việt Nam nếu cần phải thương lượng theo Công ước để tìm ra một đưòng trung tuyến (median line) giữa hai Thềm lục địa—như vẽ trong hình đăng trên Phần 1.

Trước Tòa Trọng Tài, mục đích quan trọng nhất là xin một bản án giải thích (declaratory judgement) giải thích và áp dụng Công ước về vấn đề không có mỏm đá, đất nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing/Phú Lâm, xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.

Cũng còn một căn bản khác để kiện là xin Tòa giải thích việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải /coastal state, đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và hải giám quanh giàn khoan, chiếu theo điều 297 đoạn 1a:

1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, phải được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:

a) Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58.

Lại còn vi phạm khác nữa của Trung Quốc, đó là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn hoạt động vào các lô 118 và 119, thì Trung Quốc—đáng lẽ phải theo đoạn 3 các điều 74 và 83 về các bước đi thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về EEZ và thềm lục địa để tự chế trong tinh thần hiểu biết và cộng tác (understanding and cooperation) kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures), ngõ hầu không hại đến thỏa ước sau cùng - thì Trung Quốc lại lấn lướt, hung hăng. Hành động của Trung Quốc cũng vi phạm Tuyên bố Ứng xử trên Biển Đông của ASEAN (DOC).

Trong việc kiện Trung Quốc, Việt Nam có thể theo gương Philippines, nhờ các văn phòng luật sư quốc tế giỏi, như Cotvington & Burling, khi xưa đã giúp Việt Nam thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cũng trong vấn đề Biển Đông.

Phần 3: Vai trò của cộng đồng quốc tế

Nếu tình thế tiếp tục căng thẳng thì Việt Nam phải dùng thêm các biện pháp chính trị, ngọai giao và quân sự nào? Vai trò của cộng đồng quốc tế ra sao?

Công ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hòa giải nữa trước khi đem ra các thủ tục bó buộc. Vì thế các cuộc thương nghị ngoại giao song phương, đa phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà bá quyền lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương qua ASEAN và, nhất là nếu các nước nhỏ quá ngại va chạm với Trung Quốc thì phải dùng cả sự can thiệp của các nước lớn có quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và nhất là Mỹ.

Một nền ngoại giao đa phương đã có thể làm chùn bớt hành vi hung hăng của Trung Quốc, ngay từ khi trong chuyến du hành của Thủ tướng Việt Nam qua Mỹ năm 2008: lúc đó, Tổng thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh".

Hồi hạ tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của chiến lược nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái Bình Dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á”.

Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không đe dọa hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc phật lòng.

Cơ chế các tổ chức quốc tế hoàn vũ (global international organizations) là diễn đàn nêu sự bắt nạt củaTrung Quốc trước dư luận quốc tế và có thể đi đến những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung Quốc. Vì thế nên đưa vấn đề ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc/United Nations General Assembly hay ngay cả Hội đồng Bảo an/Security Council. Một nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc là áp lực công luận quốc tế, có thể làm chùn bước Trung Quốc. Tuy ở Hội đồng Bảo an, khi lấy quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyết của Trung Quốc, nhưng Việt Nam vẫn cần đưa ra hay nhờ cường quốc đưa ra, vì đó là thủ tục có thế làm bất cứ khi nào có đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế/threat to international peace and security, như việc Trung Quốc đem chiến hạm đe dọa và dùng võ lực với lực lượng kiểm ngư và ngư dân Việt Nam. Làm như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi cho Việt Nam.

Phụ lục: Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Trung Quốc có lý không khi viện dẫn công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để nói chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa đã về tay họ? Có hai luận cứ pháp lý quốc tế cho thấy biện dẫn của Trung Quốc là phi lý.

Công thư không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. 


Công thư mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Chu Ân Lai năm 1958 thường được Trung Quốc viện dẫn một cách sai trái cho chủ quyền của họ ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp định Geneva trao quyền quản lý hành chính Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía Nam vĩ tuyến 17, cho Chính phủ Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa - VNCH) ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền của VNCH, và chính phủ này cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến Hoàng Sa 1974.

Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VNCH vào thời điểm đó, mà chỉ đưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Tuy nguyện vọng "Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại trong luật quốc tế, cho nên thực tại có hai nước Việt Nam - VNDCCH và VNCH - trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật quốc tế và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) là quốc gia kế quyền (successor state) trong  việc hành xử và bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai này cũng đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập trong bài phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011, theo đó khẳng định năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa “trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền VNCH. Chính quyền VNCH đã lên tiếng phản đối việc làm này và đề nghị Liên hiệp quốc (LHQ) can thiệp”.

Theo Hiệp ước Montevideo 1933 thì VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state), gồm: (a) một dân số ổn định; (b) một lãnh thổ rõ rệt; (c) có một chính quyền; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác. Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một quốc gia có đủ 4 điều kiện trên để lập bang giao thì là vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn luật, và chính phủ nào không ưa một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của nước đó. Chẳng hạn như trường hợp Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn nhận, nhưng Mỹ cũng không thể xóa tư cách quốc gia của Cuba được.

Quốc gia VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước thừa nhận ngoại giao, thậm chí có lúc Trung Quốc đã đề nghị cả hai nước Việt Nam vào LHQ.

Tất nhiên, việc có vào LHQ được hay không (chẳng hạn bị một trong 5 quốc gia thành viên thường trực của HĐBA phủ quyết), thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu chuẩn về sự khai sinh một quốc gia. Những ai cứ viện dẫn Hiệp định Geneve nói sẽ có một nước Việt Nam sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước VNCH như không có trong trời đất là không hiểu luật quốc tế mấy trăm năm về tình trạng quốc gia và lầm lẫn tiêu chuẩn pháp lý về tình trạng quốc gia trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường quốc trong một Hiệp định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực tại chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của quốc gia VNCH, và cũng quên mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký Hiệp định Geneva không thể truất quyền của mấy chục nước kia đã thừa nhận VNCH.

Bây giờ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và trước đây giả sử người tiền nhiệm của ông là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói một cách minh thị hơn nữa, nói có hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, thì cũng không làm giảm giá trị của sự nghiệp thống nhất đất nước vào năm 1976, vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai, thí dụ Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bangladesh, Sudan trước là một thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí và được nhìn nhận trong cộng đồng các quốc gia.

Công thư 1958 không có hiệu lực pháp lý quốc tế về việc nhượng đất.


Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral declaration) như công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế. Trong luật quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết "Estoppel", tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế theo cùng các điều kiện như trong luật quốc nội, vì có những điều kiện ngặt nghèo, và do đó không thể coi lời nói đơn phương là có hiệu lực ràng buộc đương nhiên trong luật quốc tế.

Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ "ý định" của người tuyên bố. Theo án lệ "Nuclear Tests Case Australia & New Zealand v. France 1974 I.C.J 253", thì "khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp”. Tòa án cũng nói là: “Chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không… Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác”.

Theo tiêu chuẩn trong án lệ trên mà xét, thì ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư 1958 phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn Thủ tướng chiếu theo Hiến pháp 1946. Theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44). Trong nội các đó, có Thủ tướng (điều 44), nhưng Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn H) ràng buộc Việt Nam về những việc quan trọng, thí dụ chủ quyền đất đai như việc nhượng đất; kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).

Còn Thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo học lý luật pháp "ultra vires" (vượt quá quyền hạn), và công thư của cố Thủ tưởng Phạm Văn Đồng, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là 12 hải lý hải phận mà Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ do quân đội Đài Loan chiếm giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.

Hơn nữa, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất. Trung Quốc cũng không thể mang lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra để đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á khác được. Theo án lệ"Nuclear Tests" nói trên, Tòa án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình của Trung Quốc.

29 tháng 5, 2014

848. Hoàng Sa - Kiện cái gì và kiện ở đâu?



Trước hết phải biết phía TQ họ bảo lưu ở LHQ về các điều nào, từ đó mới biết VN có thể kiện ở các điều gì, cuối cùng mới biết sẽ kiện ra tòa án nào.

Năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước 1982, đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.

Tức là TQ không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh giới trên biển.

Tức là, trong vụ giàn khoan 981, VN không thể kiện TQ ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển VN. Điều duy nhất mà VN có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa.

So sánh với Phi, VN không có được tư thế như là Phi.

Phi kiện TQ gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về yêu sách đường 9 đoạn của TQ, về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Phi, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải v.v…

Còn VN kiện, nếu không lầm, thì VN sẽ chỉ có thể kiện TQ về hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều này gián tiếp VN lại công nhận chủ quyền của TQ tại quần đảo HS rồi. Vì nếu quần đảo HS là của mình, thì mắc mớ gì mình đi kiện?

Mặt khác, khi kiện như vậy, VN cũng làm một cuộc phiêu lưu khác không kém phần nguy hiểm. Là vì VN cũng chủ trương các đảo HS có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của VN từ thập niên 80.

Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu thể nào kiện TQ khi TQ cũng chủ trương y như vậy được?

Không khéo ra Tòa VN sẽ lãnh búa.

Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước VN nên thực hành ý kiến của tôi vừa gởi cho TT Nguyễn Tấn Dũng. Tức là tái khẳng định VNDCCH và VNCH là hai vùng lãnh thổ thuộc về một quốc gia Việt Nam duy nhất, theo tinh thần của hiệp định Genève. Theo nội dung hiệp định này VN là một nước “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam”, chỉ tạm thời phân chia theo vĩ tuyến 17.

Hiệp định Paris 1973 tái xác định tư cách pháp nhân của nước Việt Nam, là một nước “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam”.

Việc thống nhất đất nước 1975 được thể hiện theo “phương cách riêng” của nội bộ dân tộc VN, trên tinh thần “dân tộc tự quyết” của Hiến chương LHQ.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Việc này có thể tạo cho VN một tư thế thoải mái hơn khi lên tiếng đòi hỏi chủ quyền tại HS. Đồng thời VN có thể có những hành động mạnh bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của TQ, như đâm chìm tàu của VN. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ nhìn nhận.


Việc kiện tụng cũng sẽ mang một sắc thái khác. Ta sẽ có phương cách phá vỡ những bảo lưu của TQ tại LHQ. Mà việc này ta sẽ bàn luận sau.

27 tháng 5, 2014

847. Bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng 1958 cách nào mới đúng

và Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh

V/V Các tuyên bố của các viên chức VN về giàn khoan 981 trong các cuộc họp báo

Kính thưa Thủ tướng, kính thưa Bộ trưởng,

Đầu tháng 5 năm 2014 Trung Quốc đã đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 tại địa điểm cách đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam) khoảng 18 hải lý, cách đảo Lý Sơn (của Việt Nam) khoảng 119 hải lý. Việc này đã gây phẫn nộ cho mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước. Đó là một hành vi có thể ghép vào hạng mục xâm lược, không bằng vũ trang sức mạnh, mà bằng một thủ đoạn tinh vi bao bọc dưới lớp vỏ khai thác dầu khí.

Các nỗ lực của nhà nước Việt Nam hôm nay, quốc tế và quốc nội, tố giác hành vi xâm lược này đồng thời khẳng định trước quốc tế tư cách (tự vệ) chính đáng của VN. Điều này được mọi tầng lớp người Việt Nam ủng hộ.

Đảo Lý Sơn, một đảo cận bờ thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đảo Tri Tôn là một cấu trúc địa lý thuộc quần đảo Hoàng Sa mà quần đảo này đã thuộc về VN từ thời xa xưa. Những nhà cầm quyền VN, liên tục qua các triều đại vua chúa, nhà cầm quyền khác nhau, đã khám phá, khai thác, quản lý và tuyên bố chủ quyền trên các đảo này mà không hề gặp bất kỳ một chống đối, hay phản đối nào của các triều đại, hay nhà cầm quyền Trung Quốc, cho đến sau Thế chiến thứ II.

Do hoàn cảnh lịch sử, nước Việt Nam bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa.

Chiếu theo tinh thần Hiệp định Genève 1954 (được các nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, TQ bảo trợ), các nước công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ VN. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ. 

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.

Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được tái xác định theo Hiệp định Paris năm 1973: Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận.

Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước VN: đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…

Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

Thưa Thủ tướng, thưa Bộ trưởng

Trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như qui định của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại đến chủ quyền, hay đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa).

Điều này hiển nhiên không đúng.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Dầu vậy, những ngày vừa qua, trong các cuộc họp báo, các viên chức của Việt Nam, thuộc Bộ Ngoại Giao vì muốn phản biện lại lý lẽ của Trung Quốc (khi vịn vào công hàm 1958 của TT Phạm Văn Đồng), đã có những tuyên bố bất lợi. Các tuyên bố này có thể làm tổn hại đến quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đến sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước Việt Nam, đồng thời khép mọi khả năng đòi lại Hoàng Sa (và các đảo TS) đã lọt vào tay Trung Quốc của các thế hệ Việt Nam tương lai.

Những người này, nhân các cuộc hóp báo, có cho rằng Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền……  hoặc bạn không thể cho ai thứ mà bạn không có chủ quyền…

Lập luận cho rằng Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền…, từ miệng một viên chức cao cấp thuộc bộ ngoại giao, có thể vô hiệu hóa yếu tố nền tảng của quốc gia Việt Nam được xác định do hai hiệp định 1954 và 1973: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.

Lập luận cho rằng bạn không thể cho ai thứ mà bạn không có chủ quyền…, từ miệng một viên chức cao cấp thuộc bộ ngoại giao, mặc nhiên nhìn nhận VNDCCH chưa bao giờ có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Lập luận thứ nhất sẽ khép lại mọi khả năng đòi lại Hoàng Sa của các thế hệ Việt Nam trong tương lai bằng thủ tục pháp lý.

Lập luận thứ hai sẽ đóng lại mọi khả năng kiện tụng của VN hôm nay (là nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH).

Vì các lẽ này, tôi trân trọng yêu cầu :

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng,

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh,

Nhanh chóng có biện pháp đính chánh, hay sửa chữa lại các phát ngôn thiếu dè dặt và sự chín chắn của các viên chức bộ Ngoại giao trong buổi họp báo vừa qua.

Tôi trân trọng cám ơn.

Pháp quốc, Ngày 26 tháng 5 năm 2014

Trương Nhân Tuấn. (truongnhantuan@yahoo.fr )


Nhà nghiên cứu nghiệp dư về lịch sử và tranh chấp biên giới Việt-Trung

26 tháng 5, 2014

846. Kiện Trung Quốc, "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ"

26/05/2014 10:44 (GMT + 7)

TT - Là nhà nghiên cứu sâu về luật quốc tế, GS-TS Nguyễn Vân Nam rất nặng lòng với thời sự nóng bỏng ở biển Đông. Theo ông, cần phải kiện ra tòa án quốc tế để Trung Quốc phải thay đổi chiến lược.


GS-TS Nguyễn Vân Nam
Ông Nam nhấn mạnh:
- Trung Quốc chỉ muốn giải quyết tranh chấp song phương, không chịu đa phương. Nhưng thỏa thuận song phương với Trung Quốc rất nguy hiểm. Họ có thể dùng nó để loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Bởi nguyên tắc tối cao của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các nước, nên những thỏa thuận song phương như vậy có khả năng và hiệu lực loại trừ nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai nước đã ký kết.
Tức là với một thỏa thuận song phương, Trung Quốc có thể loại trừ được những điều mà họ muốn loại trừ, nhưng không thể hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế. Ngoài ra, họ còn có thể ép chúng ta thực hiện những điều cam kết song phương với họ. Nhưng chính họ lại có thể không thực hiện, bởi trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có những loại thỏa thuận song phương không có hiệu lực quốc tế, và vì vậy họ không sợ bị phán xử. Điều này cực kỳ nguy hiểm. Chính vì vậy, việc cần làm ngay là phải đưa Trung Quốc vào cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương trong công pháp quốc tế.
4 cách khởi kiện Trung Quốc
* Trung Quốc luôn khăng khăng không chấp nhận thẩm quyền tài phán của tòa án quốc tế. Với trường hợp kiện của Philippines cho thấy Trung Quốc không đồng ý ra tòa mà còn gia tăng áp lực song phương.
- Điều 287 khoản 1 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) quy định khi tranh chấp, các nước thành viên có thể chọn bốn khả năng: thứ nhất là tòa án quốc tế ở Hà Lan, thứ hai là Tòa án quốc tế về luật biển ở Đức, thứ ba là tòa trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, thứ tư là tòa trọng tài theo phụ lục 8 cho những tranh chấp đặc biệt. Mới nghe thì rất dễ, nhưng không đơn giản. Ví dụ tòa án quốc tế ở Hà Lan có quy định tòa chỉ có thẩm quyền xét xử nếu được cả hai bên cùng công nhận thẩm quyền. Về nguyên tắc, các nước ký UNCLOS đều chịu phán quyết của tòa án biển quốc tế, nhưng mỗi nước khi ký đều có quyền tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phán xử của tòa án quốc tế trong lĩnh vực nào. Trung Quốc đã có tuyên bố hợp lệ loại trừ quyền tài phán của tòa án biển quốc tế đối với toàn bộ tranh chấp về chủ quyền liên quan đến đảo.
* Ngày 25-8-2006, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc các tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS, sau đó đẩy căng thẳng biển Đông lên cấp độ ngày càng nóng hơn. Theo ông, chúng ta nên chọn giải pháp nào để đấu tranh hiệu quả trên mặt trận pháp lý với Trung Quốc?
- Tôi thấy có gì đó rất nguy hiểm. Tại sao Trung Quốc lại đưa giàn khoan vào đúng lúc mọi người bất ngờ nhất? Theo tôi, nó là phép thử đầu tiên xem phản ứng của Việt Nam và công luận quốc tế để họ thu thập và đánh giá đầy đủ thông tin cần thiết cho những bước nghiêm trọng hơn. Cho nên mục tiêu của chúng ta không thể chỉ là đuổi giàn khoan xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam. Đây là cơ hội để ta đạt được các mục tiêu lớn hơn, buộc Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương. Đó là mục tiêu quan trọng đầu tiên. Mục tiêu thứ hai là bẻ gãy sự tự tin ngạo mạn kiểu Trung Quốc, khiến họ phải thay đổi chiến lược ở biển Đông. Mục tiêu thứ ba là phòng vệ chủ động: khi Trung Quốc bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án quốc tế, họ sẽ không thể nào dùng vũ lực được nữa. Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS, trong khi tòa án giải quyết các tranh chấp như thế, các bên có nghĩa vụ không được làm tình hình nghiêm trọng hơn. Nghĩa là với đơn kiện như vậy, Trung Quốc bị buộc không được dùng vũ lực hoặc các mưu mô khác có khả năng làm hiện trạng tồi tệ thêm.
Có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực
* Giới luật gia quốc tế cho rằng Trung Quốc tính già hóa non trên biển Đông. Họ cũng đang lộ ra nhiều điểm sai trái và kẽ hở?
- Trung Quốc đã rào trước đón sau rất kỹ. Kế sách của họ đưa ra tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS loại trừ cả bốn cách quốc tế giải quyết tranh chấp theo luật biển, đặc biệt là tòa án quốc tế giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền đảo... Chúng ta phải nghĩ ra toàn bộ hướng khởi kiện, nghiên cứu sâu các hướng đó để đánh giá hướng nào có khả năng nhất. Vì vậy, trước tiên đơn kiện của chúng ta phải không lọt vào vùng loại trừ của Trung Quốc. Thứ hai, đơn kiện này phải được một cơ quan tài phán quốc tế chấp nhận. Đây là cái khó, nhưng có giải pháp. Chúng ta kiện vào cái mà Trung Quốc buộc phải thực thi, một nghĩa vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc không thể loại trừ. Đó chính là khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS đều quy định các nước thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, không được sử dụng vũ lực, và nghĩa vụ này không bị loại trừ bởi bất kỳ tuyên bố nào.
Thế nào là sử dụng vũ lực thì có thể còn tranh cãi. Và bởi vì còn tranh cãi nên cần phải có cơ quan tài phán độc lập. Đó chính là thuận lợi cho mình. Các hành vi sử dụng vũ lực này là dùng tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư... thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc phá hỏng tàu Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là tàu của nhà nước Trung Quốc đã có gây thương tích cho người Việt Nam. Như vậy, chúng ta có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS ra Tòa án quốc tế về luật biển. Nội dung kiện này không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc. Họ có thể không đồng ý. Nhưng theo quy định của UNCLOS, nếu một bên không đồng ý thì phải chuyển qua tòa trọng tài theo phụ lục 7. Tòa trọng tài này sẽ không thể tuyên là việc sử dụng vũ lực không thuộc thẩm quyền, bởi đó là nghĩa vụ căn bản mà Trung Quốc không thể loại trừ.
* Ngoài hướng kiện này, chúng ta còn có thể kiện theo nội dung nào khác?
- Ngoài kiện kết tội, chúng ta có thể khởi kiện yêu cầu xác định hành vi. Đó là yêu cầu Tòa án quốc tế về luật biển khẳng định hành vi tàu Trung Quốc đâm vào làm hư hỏng tàu Việt Nam, gây thương tích người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực. Trong đó, đặc biệt là yếu tố gây tổn thương đến con người. Đây là trường hợp Tòa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền lý giải và áp dụng UNCLOS. Ở nước ngoài, kiểu kiện yêu cầu tòa án khẳng định một sự việc này rất phổ biến (kiện không có bị đơn). Để giải quyết, tòa sẽ phải mời Trung Quốc nhưng không phải trong tư cách bị đơn. Và như thế, họ vẫn bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương. Đây là giải pháp khởi kiện tốt vì khả năng thắng lợi rất cao. Sau khi tòa ra phán quyết hành vi vũ lực của Trung Quốc, chúng ta có thể sẽ tiếp tục kiện kết tội họ.
* Liệu có khả năng dù tòa phán quyết thế nào, Trung Quốc vẫn cậy thế nước lớn, không chấp nhận và cứ làm theo ý chí của mình?
- Đó là thực tế. Nhưng với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình. Trung Quốc khó có thể còn lu loa nói càn như “rất ngạc nhiên, sửng sốt”. Họ sẽ chùn tay trong hành động làm tình hình tồi tệ thêm.
Ngư dân có thể kiện
* Ngoài hướng kiện của Nhà nước Việt Nam đối với nhà nước Trung Quốc, ông có cho rằng chính ngư dân chúng ta cũng có thể tìm công lý từ luật pháp quốc tế, mà cụ thể là UNCLOS?
- UNCLOS bảo vệ rất chặt chẽ quyền đánh cá. Khoản 2 điều 20 quy chế Tòa án quốc tế về luật biển ghi rõ đây là tòa án quốc tế duy nhất cho phép các chủ thể không phải là nhà nước có thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến cách hiểu và áp dụng UNCLOS. Một thuận lợi lớn mà chúng ta chưa vận dụng. Chính các thành viên Tòa án quốc tế về luật biển cũng khuyến khích hướng kiện này từ người dân.
* Với sự “phòng thủ” kín kẽ luật pháp của Trung Quốc, ngư dân Việt Nam có thể kiện theo hướng nào để có thể thực thi mà không bị rơi vào vùng loại trừ trong tuyên bố bảo lưu của Trung Quốc?
- Trung Quốc đang cản trở tự do đánh bắt, gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng ngư dân. Nếu dựa vào UNCLOS thì Trung Quốc có rất nhiều vi phạm. Nhưng điều chủ yếu ở đây phải xem xét kỹ là với những hành vi sử dụng vũ lực đó, ngư dân Việt Nam đã có thể khởi kiện được Trung Quốc chưa? Cá nhân ngư dân hoặc qua các hiệp hội, tổ chức nghề cá đều có thể khởi kiện được. Tuy nhiên, dù là cá nhân hay tổ chức nghề cá thì khi ra Tòa án quốc tế về luật biển họ cũng như là một nhà nước khởi kiện. Họ cũng gặp nhiều khó khăn lẫn thuận lợi như nhà nước tiến hành kiện. Nhưng nếu biết lập luận, có thể họ sẽ không rơi vào những trường hợp tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
* Ngư dân cần được hỗ trợ, chuẩn bị những gì để tự tin bước vào mặt trận tìm kiếm công lý quốc tế?
- Theo tôi, khó khăn lớn nhất ở đây với ngư dân là quá trình thu thập chứng cứ. Ngư dân đi đánh cá bị tàu Trung Quốc đâm hư hỏng, phun vòi rồng nước, bắn cháy, cướp tài sản và hải sản... thì phải thu thập được chứng cứ. Đặc biệt, những chứng cứ đó phải được lấy theo chuẩn mực quốc tế như chụp ảnh, quay phim... Nhà nước, các hội đoàn và nhân dân cả nước có thể hỗ trợ ngư dân bằng kinh phí, trang bị máy móc đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, bản thân ngư dân rất khó tự thân xoay xở. Chính Trung Quốc cũng hiểu rõ điều này. Ngoài các tàu nhà nước, nhiều lần họ sử dụng tàu ngụy trang tàu cá để che đậy hành động tấn công ngư dân Việt Nam.

QUỐC VIỆT thực hiện

25 tháng 5, 2014

845. NGHIÊN CỨU “TUYÊN BỐ VỀ LÃNH HẢI CỦA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA” NĂM 1958


Động cơ của tôi khi dịch bài này là cung cấp tư liệu cho nhà nước Việt Nam và những ai muốn nghiên cứu về bối cảnh ra đời của bản Tuyên bố này, nhằm giúp ích cho việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.

Ngoài ra, từ nghiên cứu này cho thấy quan niệm và cách làm từ phía Trung Quốc rất chu đáo, có tính toán trước sau kĩ càng. Cách làm đáng để cho nhà nước Việt Nam và các nhà nghiên cứu trong nước xem xét, suy nghĩ, hòng tìm ra biện pháp ứng phó cho đích đáng.

Mong lắm thay!!!

NGHIÊN CỨU “TUYÊN BỐ VỀ LÃNH HẢI CỦA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA” NĂM 1958

Tháng Chín 6, 2011
(Luận văn nghiên cứu, không có tên tác giả, được lưu trữ trong Kho lưu trữ Luận văn quốc gia)
Nguồn: http://www.lunwen2.com/New-190.html
Người dịch: Nguyễn Trung Thuần

Đề dẫn nội dung

Căn cứ theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia, trên cơ sở tổng kết lí luận và thực tiễn về quản lí lãnh hải TQ, kết hợp với thực tế quốc tế và những nguyên tắc của luật quốc tế đã được công nhận, năm 1958, chính phủ TQ đã ra “Tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”.

Chính văn

Lãnh hải chỉ chủ quyền của các nước ven biển cùng một vùng biển liền kề nằm ngoài lãnh thổ đất liền và nội thủy của các nước đó. Nó là phần kéo dài trên biển của lãnh thổ quốc gia, giống như mọi bộ phận khác thuộc lãnh thổ quốc gia, các nước ven biển được hưởng thẩm quyền độc quyền về tất cả mọi người và mọi vật trong vùng lãnh hải. Trung Quốc nằm bên bờ tây Thái Bình Dương, các vùng biển lân cận đại lục và đảo của Trung Quốc thuộc thẩm quyền và quyền sử dụng hết sức rộng. Để thừa hành một cách có hiệu quả chủ quyền và thẩm quyền lãnh hải, bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ lợi ích biển, căn cứ theo thực tiễn quốc tế và các nguyên tắc của Luật quốc tế, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 1 đã họp Hội nghị lần thứ 100 để phê chuẩn “Tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” (dưới đây gọi tắt là “Tuyên bố lãnh hải”).

I. Bối cảnh lịch sử và thời đại công bố “Tuyên bố lãnh hải”

Sau năm 1840, trước sự công kích ác liệt của pháo hạm Phương Tây, các quyền lợi về biển như mở cửa biển ngoài khơi, quyền vận chuyển ven biển, quyền quản lí cảng, quyền vận chuyển trên sông nội địa… đều bị tước đoạt sạch: “Các cường quốc đế quốc đã căn cứ vào bản Điều ước bất bình đẳng để không chế tất cả mọi cảng thông thương,… trọng yếu của TQ. Chúng khống chế cả hải quan và buôn bán với nước ngoài của TQ, khống chế cả giao thông (trên biển, trên đất liền, trên sông, và trên không) của TQ” [1]. Trước sự xâm nhập trên biển của các cường quốc Phương Tây, TQ cũ tuy có có chú ý đến vấn đề lãnh hải, song chưa hề xây dựng chế độ lãnh hải độc lập một cách thực sự. Như bản “Điều ước thông thương hữu hảo” được kí kết giữa nhà Thanh với Mêhicô qui định: “Hai bên đều lấy đường bờ biển đi lại là 3 lectra (tức 9 hải lí) làm thủy giới, lấy mốc thủy triều hạ làm chuẩn”. “Thủy giới” ở đây xét về chừng mực nào đó là mang ý nghĩa lãnh hải, song mục đích của nó là: “Thủy giới được thực hiện bám theo điều lệ hải quan của nước đó, đồng thời tìm mọi cách luồn lách để buôn lậu, trốn thuế”, [2] Điều này có phần khác với lãnh hải hiểu theo nghĩa hiện đại. Ở thời kì Dân Quốc thì bệ nguyên si độ rộng lãnh hải và phép phân chia của các nước Anh, Mĩ… mà qui định phạm vi lãnh hải của TQ là 3 hải lí, tổng số dặm chống buôn lậu (tức vùng tiếp giáp) là 12 hải lí, phạm vi lãnh hải được tính từ đường nước đáy (tức đường căn bản thông thường). Độ rộng lãnh hải hẹp như vậy trên thực tế là bất lợi đối với TQ, bởi vì một quốc gia nghèo nàn lạc hậu như TQ quyết không thể đi xâm phạm lãnh hải của một cường quốc, còn các cường quốc thì lại có thể trắng trợn mặc sức muốn làm gì thì làm ở vùng biển gần TQ. Hơn nữa, do các nhà thống trị TQ cũ thối nát bất tài, ngay cả quyền vận chuyển trên sông cũng dâng cho các cường quốc Phương Tây, để đến nỗi các đoàn thương thuyền và quân hạm của nước ngoài không chỉ có thể tự do ngang ngược vào ra vùng lãnh hải của nước ta, mà còn có thể đi thẳng vào đường sông của TQ. Tình trạng TQ cũ có biển mà không biết giữ, vùng lãnh hải và vùng tiếp giáp vô tác dụng đã để lại cho chúng ta một bài học đau xót.

Sau khi nước TQ mới được thành lập năm 1949 đã rất coi trọng chủ quyền lãnh hải, đã phế bỏ bản Điều ước bất bình đẳng thời cận đại, đã bước vào một giai đoạn lịch sử mới về phương diện khai thác, sử dụng, quản lí lãnh hải…, đã ban bố một loạt chế độ qui định có liên quan đến vấn đề lãnh hải: (1) Về vấn đề quản lí cảng và giám sát cảng vụ, năm 1954 đã công bố “Điều lệ tạm thời về quản lí hải cảng”; (2) Về vấn đề quản lí tàu thuyền, năm 1957 đã ban bố “Biện pháp quản lí ra vào cảng của các tàu thuyền có quốc tịch nước ngoài”; (3) Về vấn đề quản lí eo biển, năm 1956, để bảo đảm sự an toàn cho sự đi lại ở eo biển Bột Hải, đã ban bố “Qui định về các thương thuyền đi qua đường thủy Lão Thiết Sơn”; (4) Về vấn đề bảo vệ nguồn tài nguyên thủy sản và quản lí nghề cá trên biển, năm 1955 đã công bố “Mệnh lệnh về khu cấm đánh bắt cá nghề ngư lưới kéo bánh xe ở Bột Hải, Hoàng Hải và Đông Hải”; (5) Về vấn đề quản lí hải quan, năm 1951 đã ban bố “Luật hải quan tạm thời của nước CHND Trung Hoa”; (6) Về vấn đề chủ quyền các đảo ven biển, năm 1951 Chu Ân Lai đã nhấn mạnh trong “Tuyên bố về Bản phác thảo Hòa ước của Mĩ Anh đối với Nhật và Hội nghị Cựu Kim Sơn”: “Quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa-ND) và đảo Nam Uy cũng giống như toàn bộ các quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa-ND), quần đảo Trung Sa, quần đảo Đông Sa, xưa nay là lãnh thổ của TQ”. Vì thế, nước TQ mới có chủ quyền bất khả xâm phạm đối với đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa-ND). Nhân dân TQ cũng quyết không cho phép chính phủ Mĩ xâm chiếm lâu dài Đài Loan lãnh thổ của TQ; “đồng thời bất cứ lúc nào cũng không hề từ bỏ trách nhiệm thiêng liêng giải phóng Đài Loan và quần đảo Bành Hồ”. Năm 1956, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước ta đã nêu rõ trong “Tuyên bố về vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa (tức Truờng Sa-ND): “Chủ quyền hợp pháp của TQ đối với quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa-ND) quyết không cho phép bất kì quốc gia nào xâm phạm với bất cứ cớ gì và sử dụng bất cứ hình thức nào”. [3] Ngoài những chế độ qui định và tuyên bố đề cập đến vấn đề lãnh hải đó ra, các học giả chuyên gia khi ấy cũng đã bắt đầu nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề lãnh hải, như chuyên gia về luật hàng hải Ngụy Văn Hán nhấn mạnh độ rộng lãnh hải của chúng ta “cần đưa ra quyết định sau khi đã có sự xem xét tổng hợp mọi tình hình về tình trạng cụ thể, quốc phòng và an ninh, phúc lợi nhân dân… ở vùng ven biển nước ta”, ông cho rằng TQ cần sử dụng Luật về đường căn bản trực tuyến để hoạch định độ rộng lãnh hải, độ rộng này không nên ít hơn 12 hải lí. Tháng 12 năm 1957, trước ngày khai mạc Hội nghị lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc tại Giơnevơ, tờ “Nhân dân nhật báo” đã đăng bài viết có nhan đề “Chủ quyền lãnh hải và tự do công hải”, bác bỏ luận điệu của Mĩ, Anh chủ trương lấy độ rộng lãnh hải 3 hải lí làm qui phạm chung cho luật quốc tế, nhấn mạnh thực tiễn của tuyệt đại đa số các nước cho thấy, độ rộng lãnh hải cần do các nước ven biển căn cứ theo tập quán lịch sử, lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia của mình mà tự do quyết định”. [4] Các biện pháp quản lí về lãnh hải ở thời kì đầu dựng nước và thành quả nghiên cứu về vấn đề lãnh hải của các học giả chuyên gia đã cung cấp những cơ sở lí luận nhất định cho việc phát biểu “Tuyên bố lãnh hải” của nước ta năm 1958.

Xét từ những nguyên nhân trực tiếp trong hiện thực, sau khi nổ ra cuộc Chiến tranh Triều Tiên, nước Mĩ đã quyết định dùng vũ lực để ngăn cản TQ đại lục giải phóng Đài Loan, đã ra lệnh cho Hạm đội 7 hải quân tiến vào eo biển Đài Loan. Khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, nước Mĩ không những vẫn tiếp tục nằm ỳ lại ở Đài Loan, mà còn liên tục phái quân hạm xâm nhập trắng trợn vào các khu vực ven biển như Hạ Môn…, đồng thời điều máy bay chiến đấu hải quân xâm nhập vùng trời lãnh hải của các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông…, mở rộng phạm vi xâm lược đối với nước ta. Sự khiêu khích quân sự lộ rõ này của nước Mĩ là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh hải của nước ta, về việc này, chính phủ nước ta đã nhiều lần đưa ra lời cảnh báo và khiển trách nặng nề. Có thể thấy, bản “Tuyên bố lãnh hải” do TQ công bố năm 1958 chủ yếu là nhằm vào việc Mĩ đã dùng vũ lực để xâm chiếm Đài Loan một cách phi pháp, tạo nên cục diện căng thẳng ở eo biển Đài Loan, để tỏ rõ thêm cho toàn thế giới biết thái độ và lập trường về vấn đề lãnh hải của chính phủ TQ mới. Ngoài ra, một số ngư thuyền hiện đại của các nước như Nhật Bản… khi ấy còn thường xuyên tới đánh bắt cá bất hợp pháp ở ngư trường TQ, chính phủ TQ tuy đã lên án, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ. Do chưa có căn cứ luật pháp, nên rất khó trừng phạt cho thật thích đáng.

Xét từ phương diện quốc tế, một mặt, một vài cuộc hội nghị quốc tế khi ấy đã định ra các văn bản luật pháp về vấn đề lãnh hải, như Hội nghị pháp điển hóa Luật quốc tế La Hay năm 1930 đã đưa ra bản báo cáo về “Địa vị luật pháp của lãnh hải”, Hội đồng Luật quốc tế từ năm 1950-1956 đã soạn ra bản dự thảo cho Công ước Luật biển, đặc biệt là bản “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị về biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc tổ chức ở Giơnevơ từ tháng 2-4 năm 1958 đã xác nhận quyền kiến lập lãnh hải của các nước bằng hình thức điều ước quốc tế, điều này đã cung cấp một căn cứ luật quốc tế nhất định cho việc công bố bản “Tuyên bố lãnh hải” của TQ. Mặt khác, các nước Thế giới thứ 3 khi ấy đã triển khai cuộc đấu tranh đòi mở rộng chủ quyền lãnh hải, năm 1947, lần đầu tiên các nước Chilê, Braxin đã nổi dậy đấu tranh giành lại và bảo vệ chủ quyền biển 200 hải lí, tiếp đến là các nước Côxta Rica, Xanvađo … cũng lần lượt đưa ra các yêu cầu tương tự, đã xuất hiện một trào lưu lịch sử đòi mở rộng chủ quyền và quyền quản lí của các nước ven biển ra phía biển. Năm 1954, các nước Êcuađo, Mêhicô… còn áp dụng một loạt các biện pháp thực tế để bảo vệ lãnh hải và tài nguyên cá của nước mình, kiên quyết lên án, bắt giữ và phạt tiền ngư thuyền của các cường quốc biển tự ý đột nhập vào vùng lãnh hải và phạm vi quản lí của nước mình, tất cả những điều này đã cung cấp kinh nghiệm quí báu cho việc công bố bản “Tuyên bố lãnh hải” của TQ.

II. Nội dung chủ yếu của “Tuyên bố lãnh hải”

Bản “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 chủ yếu đưa ra mấy qui định cơ bản cho chế độ lãnh hải của TQ mới như sau:

Thứ nhất, về vấn đề độ rộng lãnh hải.

Độ rộng lãnh hải là chỉ cự li nằm trong khoảng từ đường căn bản đo lường lãnh hải cho đến đường tối ngoại vi của nó. Về điều này, “Tuyên bố lãnh hải” qui định: Độ rộng lãnh hải của nước CHND Trung Hoa là 12 hải lí. Qui định này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước CHND Trung Hoa, bao gồm phần đất TQ trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả cùng các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa-ND), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa-ND) khác thuộc TQ. “Qui định này là thể hiện chủ quyền quốc gia, hoàn toàn phù hợp với lợi ích của nhân dân TQ, và cũng phù hợp với chuẩn tắc của Luật quốc tế đã được công nhận khi ấy. Song, một vài nước đế quốc lúc đó lại cho rằng độ rộng lãnh hải 12 hải lí của nước ta là “không thể chấp nhận được”, chẳng hạn như Mĩ cương quyết không thừa nhận “Tuyên bố lãnh hải” của nước ta, cho rằng luật quốc tế chỉ thừa nhận độ rộng 3 hải lí, TQ không có quyền qui định độ rộng 12 hải lí. Anh cũng bày tỏ không thừa nhận lãnh hải trên 3 hải lí, đồng thời đã gửi công hàm tới chính phủ nước ta để biểu thị sự bất đồng. Cách nói và cách làm này của các nước Anh, Mĩ là không có chút đạo lí, là can thiệp thô bạo vào chủ quyền TQ.

Bất cứ quốc gia nào cũng có quyền xác định độ rộng lãnh hải của mình: (1) Với tư cách là một hành vi chủ quyền của quốc gia, độ rộng lãnh hải được các nước ven biển xác định một khi đã tuyên bố là liền lập tức có hiệu lực, không cần phải có sự thừa nhận của các nước, các nước cũng không có quyền giải thích, chủ trương này thực tế là dựa trên quan điểm như sau: Chủ thể của luật quốc tế chủ yếu là các quốc gia có chủ quyền, bất cứ ai cũng không có quyền hạn chế chủ trương này. (2) Lãnh hải của một nước rút cục nên rộng bao nhiêu, khi ấy giữa các nước chưa hề đi đến hiệp thương thống nhất, lâu nay luật quốc tế cũng chưa có qui định thống nhất về độ rộng lãnh hải, các nước xưa nay cũng đều tự chủ xác định độ rộng lãnh hải cho nước mình. (3) Điều kiện tự nhiên ở ngoài khơi các khu vực trên thế giới là không giống nhau, tình trạng tiếp giáp vùng biển của các nước cũng hết sức đa dạng, nhu cầu phát triển kinh tế và an ninh quốc gia của các nước cũng có sự khác biệt, vì thế, đòi hỏi tất cả các quốc gia đều có độ rộng lãnh hải như nhau cũng chẳng khác nào như nói điều kiện địa lí của tất cả các quốc gia là như nhau, đây là điều cực kì nhảm nhí. (4) Các nước ven biển có quyền xác định hợp lí độ rộng lãnh hải của mình trên cơ sở xem xét các nhân tố lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, quốc phòng… cùng lợi ích hợp pháp của các quốc gia lân cận và sự tiện lợi trong vận chuyển quốc tế.

3 hải lí không phải là giới hạn duy nhất cho độ rộng lãnh hải như Mĩ, Anh đã rêu rao, và cũng không phải là qui chuẩn được luật quốc tế tiếp nhận phổ biến. (10) Trong lịch sử, có rất nhiều các thuyết pháp khác nhau về độ rộng lãnh hải, như thuyết lộ trình hàng hải, thuyết tầm nhìn, thuyết tường vây cửa khẩu, thuyết tầm bắn đại bác…, độ rộng 3 hải lí trong đó được bắt nguồn từ thuyết tầm bắn đại bác. Năm 1703, nhà luật học Hà Lan Bynkershoek đề xuất khống chế độ rộng ngoài khơi cho các nước ven biển theo giới hạn là tầm bắn đại bác, tầm bắn đại bác khi ấy là 3 hải lí, vì thế, năm 1782, nhà luật học Italia Galindo Jani kiến nghị lấy 3 hải lí làm độ rộng lãnh hải. Về sau, các nước Anh, Mĩ đã dựa theo ý tưởng này mà lần lượt thực hiện độ rộng lãnh hải 3 hải lí. Song, vũ khí hiện đại đổi mới từng ngày, ngày càng phát triển theo hướng tinh vi, tầm xa và thông minh hơn. Ngoài ra, sự phát triển kĩ thuật trong phương diện vận chuyển hàng hải cùng những tiến bộ kĩ thuật trong các phương diện khác không thể không có sự ảnh hưởng lớn đến qui chuẩn 3 hải lí, vì thế thuyết 3 hải lí đã lỗi thời từ lâu. (2) Do tình trạng bờ biển cùng các loại lợi ích của từng nước không giống nhau, cho nên đồng thời tồn tại với giới hạn độ rộng lãnh hải 3 hải lí khi ấy còn có mấy loại sau: Thực hành độ rộng lãnh hải 3 hải lí ở các nước như Đan Mạch…; thực hành độ rộng lãnh hải 6 hải lí ở các nước như Hi Lạp…; thực hành độ rộng lãnh hải 9 hải lí ở các nước như Mêhicô…; thực hành độ rộng lãnh hải 12 hải lí của các nước như Liên Xô…; thực hành độ rộng lãnh hải 15 hải lí ở các nước như Êcuađo…; thực hành độ rộng lãnh hải 200 hải lí ở các nước như Xanvađo… Qua đây có thể thấy, độ rộng lãnh hải ở các nước hết sức thiếu thống nhất, độ rộng 3 hải lí chỉ là một loại chủ trương của các cường quốc biển, không thể lấy đó để phủ nhận hoặc phản đối tính hợp pháp của các độ rộng lãnh hải trên 3 hải lí. (3) Sau khi Đại chiến thế giới II kết thúc, các nước mới nổi giành được độc lập dân tộc thường chủ trương lãnh hải rộng hơn, nhằm đạt mục đích bảo vệ an ninh của nước mình, bảo về nguồn tài nguyên biển, phát triển nền kinh tế cho nước mình. Trước tình tình ấy, số nước chủ trương lãnh hải 3 hải lí đã dần dần giảm bớt, còn số nước chủ trương 12 hải lí lại đang tăng lên. Tính đến thời điểm TQ công bố “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958, đã có 15 nước trên thế giới tuyên bố 12 hải lí như Liên Xô, Inđônêxia…, vì thế chính phủ nước ta dĩ nhiên cũng có quyền lợi và căn cứ đầy đủ để qui định độ rộng lãnh hải cho mình là 12 hải lí.

Việc các nước Mĩ, Anh vẫn giữ nguyên độ rộng lãnh hải 3 hải lí chật hẹp thực chất là sự phản ánh của chính sách thực dân cũ. Đa số các nước giữ nguyên độ rộng lãnh hải 3 hải lí trên thế giới khi ấy đều là những cường quốc hải quân có lực lượng hải quân hùng hậu, từng tiến hành những họat động rộng lớn trên biển, địa bàn của những cường quốc biển này nguời khác không thể tới và cũng không dám tới, còn địa bàn của người khác thì các hạm đội của họ lại muốn tới lúc nào cũng được. Ngoài ra, họ có được lợi ích trên biển đã có, nên cần phải duy trì hết mức có thể độ rộng lãnh hải hạn hẹp nhằm bảo đảm giữ những vùng biển cả lớn nhất làm nơi cho tàu tuần tiễu trên biển của mình. Vì thế, việc Mĩ, Anh phản đối các nước khác mở rộng độ rộng lãnh hải tuyệt đối không hề xuất phát từ điều gọi là lợi ích vận chuyển quốc tế, mà là có mưu đồ tiếp cận ở hạn độ lớn nhất với bờ biển của nước khác, cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên dưới nước của những nước này, tiến hành khiêu khích quân sự cùng những hành động đối địch khác. Nước Mĩ khi ấy liên tục điều các quân hạm và máy bay xâm nhập lãnh hải và vùng trời lãnh hải của TQ, tiến hành chiến tranh khiêu khích và mở rộng phạm vi xâm lược, chính là họ đã dùng tôn độ rộng lãnh hải 3 hải lí làm sự chú giải tốt nhất cho luật vàng.

Thứ hai, về vấn đề đường căn bản lãnh hải.

Để định rõ phạm vi lãnh hải, thường phải xác định một đường khởi điểm để đo độ rộng lãnh hải, tức đường căn bản lãnh hải (cũng chính là giới hạn trong của độ rộng lãnh hải). Đường căn bản lãnh hải đo hướng vào đất liền là nội hải của quốc gia, còn đường căn bản lãnh hải đo hướng ra biển là vùng biển. Đường căn bản lãnh hải có đường căn bản bình thường và đường căn bản trực tuyến. Hai phương pháp này phản ánh sự khác biệt về tình trạng địa lí bờ biển: Nếu bờ biển có phân giới biển và đất liền rõ, đường bờ biển tương đối bằng phẳng, thì thường áp dụng phương pháp đường căn bản bình thường, tức lấy đường đáy nước làm đường căn bản. Nếu bờ biển quá khúc khuỷu, ven bờ lại có nhiều đảo thì thường dùng cách lựa chọn một vào điểm căn bản trên đất liền ven biển và trên các đảo, cứ từng 2 điểm căn bản lại vạch thành từng đường trực tuyến, nối các đường trực tuyến này lại sẽ tạo thành đường căn bản, đó cũng chính là phương pháp đường căn bản trực tuyến. Bản “Tuyên bố lãnh hải” của nước ta năm 1958 tuyên bố không dùng đường đáy nước (tức đường căn bản bình thường) của TQ làm đường khởi điểm, mà áp dụng phương pháp đường căn bản trực tuyến: “Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, phần biển 12 hải lý tính từ các đường căn bản là lãnh hải của TQ”. Phương pháp đường căn bản trực tuyến này phù hợp với tình trạng thực tế bờ biển gập ghềnh khúc khuỷu, nhiều đảo ngoài khơi của TQ là hết sức hợp lí.

Do điều kiện địa lí của từng quốc gia không giống nhau, không thể định ra một phương pháp tính toán thống nhất để dùng cho tất cả mọi quốc gia, cho nên mỗi quốc gia cũng có thể quyết định phương pháp tính toán cho mình giống như khi quyết định độ rộng lãnh hải. Chúng ta áp dụng phương pháp đường căn bản trực tuyến không chỉ thừa hành một cách hợp lí chủ quyền không thể tước đoạt của mình, mà còn phù hợp với cả thực tiễn quốc tế và luật quốc tế. Ngay từ năm 1812, Na Uy đã xem xét đến tình trạng bờ biển đặc biệt khúc khuỷu của nước mình, đã xác nhận luôn phương pháp tính này này trong “Thông báo Hoàng gia”, đồng thời năm 1935, trong Nghị định Hoàng gia, quốc vương đã áp dụng phương pháp đo này để xác định phạm vi vùng cá của Na Uy. Do vùng biển bao quanh đường căn bản trực tuyến là vùng đánh cá trước đó của Anh, cho nên Anh đã ra sức phản đối phương pháp tính này. Sau đó, hai nước đã đưa tranh chấp ra Tòa án quốc tế, năm 1951 Tòa án quốc tế phán quyết phương pháp hoạch định vùng đánh bắt cá của Na Uy là không vi phạm luật quốc tế, điều này đã xác nhận tính hợp pháp của phương pháp đường căn bản trực tuyến. Kể từ đó, các nước Aixơlen, Inđônêxia… cũng lần lượt áp dụng phương pháp tính này. Do phương pháp tính này tương đối thuận tiện, hơn nữa lại được các nước áp dụng ngày càng nhiều hơn so với phương pháp đường căn bản bình thường để mở rộng diện tích nội hải và lãnh hải thuộc chủ quyền quản lí quốc gia. Năm 1958, bản “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc đã khẳng định phương pháp tính này dưới hình thức điều ước quốc tế: Gặp phải những chỗ sâu thụt lồi lõm ở đường bờ biển hoặc những bờ biển sát đảo, thì khi vạch đường căn bản làm điểm khởi đầu tính độ rộng lãnh hải có thể áp dụng phương pháp các điểm thỏa đáng nối liền các đường căn bản trực tuyến. Dĩ nhiên TQ cũng có thể căn cứ theo nhu cầu và diện mạo địa lí ven biển của mình để sử dụng phương pháp đường căn bản trực tuyến để hoạch định độ rộng lãnh hải cho mình.

Thứ ba, về vấn đề nội hải của TQ.

Nội hải còn gọi là nội thủy, chỉ vùng biển nằm bên trong đường căn bản lãnh hải của một nước, cũng giống như lãnh thổ trên đất liền, nội hải là một bộ phận cấu thành của các nước ven biển, có địa vị luật pháp tương đồng với lãnh thổ đất liền. “Tuyên bố lãnh hải” của nước ta năm 1958 qui định: “Vùng biển nằm bên trong đường căn bản, bao gồm vịnh Bột Hải, eo biển Quỳnh Châu, đều là nội hải của TQ. Các đảo nằm bên trong đường căn bản, bao gồm các đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ Liệt, đảo Bạch Khuyển Liệt, đảo Chim, đảo Đại Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, đảo Động Đính, đều là đảo nội hải của TQ.” [5] Ở đây có hai vấn đề cần thuyết minh rõ:

Về vấn đề vịnh Bột Hải: (1) Luật quốc tế cho rằng các vịnh biển mà bờ biển thuộc lãnh thổ của một nước có thể được coi là nội hải của nước ven biển, như bản “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc năm 1958 qui định: Nếu độ rộng cửa vịnh của vịnh biển không quá 24 hải lí, thì vùng biển được đường phong bế cửa vịnh bao quanh là nội hải; nếu độ rộng cửa vịnh quá 24 hải lí, thì vùng biển được đường căn bản trực tuyến bao quanh rộng 24 hải lí trong vịnh mới là nội hải, song qui định này không phù hợp với những “vịnh mang tính lịch sử”. (2) Vịnh biển mang tính lịch sử là chỉ những vịnh biển mà bờ biển thuộc về một nước, nước ven biển ấy thừa hành chủ quyền lâu dài với vịnh biển này, đồng thời được các nước khác chấp thuận hoặc mặc nhiên công nhận, bất kể độ rộng cửa vịnh đó có quá 24 hải lí hay không cũng đều được coi là nội hải của các nước ven biển, như năm 1957 Liên Xô tuyên bố vịnh Đại Pite (Большой Питер) là vịnh biển mang tính lịch sử, độ rộng cửa vịnh tới 110 hải lí. Vịnh Bột Hải chính là vịnh biển mang tính lịch sử của TQ, điều này có thể chứng minh bằng một sự thực lịch sử: Năm 1864, khi nước Phổ đánh nhau với Đan Mạch ở Châu Âu, công sứ Phổ là Von Rehfues đã đáp quân hạm bắt 3 thương thuyền của Đan Mạch tại vịnh Bột Hải. Khi ấy, triều nhà Thanh cho rằng sự việc này xảy ra ở “nội dương do TQ trực tiếp quản lí” (tức nội hải của TQ), “không phải là mặt biển công cộng của các nước”, “là tước đoạt lộ liễu chủ quyền của TQ”, đồng thời dẫn chứng luật quốc tế khi ấy đã dịch ra tiếng Trung để đưa ra kháng nghị, đây “không thuộc trách nhiệm của Đan Mạch, mà thực ra là TQ bảo vệ quyền lợi của mình”. Trước sự uy híếp của bản kháng nghị lấy luật quốc tế làm nguyên tắc cùng việc triều đình nhà Thanh không chịu tiếp đãi công sứ Đan Mạch, Von Rehfues đã gửi công hàm “Tự nhận tội tại nước Phổ”, rồi phóng thích 3 thương thuyền của Đan Mạch. [6] Sự việc này đã thuyết minh một cách đầy đủ vịnh Bột Hải từ xưa đến nay là thuộc chủ quyền của nước ta, chịu sự điều khiển và quản lí hữu hiệu của chính phủ TQ, từ lâu đã được công nhận là nội hải của TQ. (3) Xét từ đặc điểm địa lí của vịnh Bột Hải, cửa vịnh của nó tuy tới 45 hải lí, nhưng cửa vịnh lại có một loạt đảo sắp xếp thành quần đảo đền đảo…, tạo thành 8 cửa vào, một cửa vịnh trong số đó cũng rộng không quá 22,5 hải lí, trong vòng 24 hải lí, ngay cả có căn cứ theo qui định về đường phong bế 24 hải lí trong “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc năm 1958, toàn bộ vùng nước vịnh Bột Hải cũng cần được coi là nội hải của nước ta. Ngoài ra, nước ta áp dụng phương pháp đường căn bản trực tuyến, dùng những đảo này làm điểm căn bản để hoạch định đường căn bản trực tuyến cũng có nghĩa là hoạch định luôn vịnh Bột Hải là nội hải của nước ta, vì thế bất luận là xét về mặt luật pháp, về mặt lịch sử hay về mặt địa lí, vịnh Bột Hải cũng vẫn là nội hải của nước ta.

Về vấn đề eo biển Quỳnh Châu: (1) Xét từ mối quan hệ giữa các vùng biển eo biển với các nước ven biển, eo biển được chia thành các loại eo biển nội hải, eo biển lãnh hải và eo biển phi lãnh hải. Eo biển nội hải chỉ eo biển có hai bờ cùng thuộc về lãnh thổ đất liền của một nước, đồng thời nằm vào bên trong đường căn bản lãnh hải của nước ấy. Eo biển nội hải, cũng giống như các vùng biển khác nằm bên trong đường căn bản, là nội thủy của một nước, nước ấy có quyền quản lí và quyền chi phối độc quyền đối với nó, eo biển Quỳnh Châu chính là thuộc loại eo biển nội hải như vậy. (2) Eo biển Quỳnh Châu về mặt lịch sử luôn nằm dưới chủ quyền quản lí của Trung Quốc và trở thành một bộ phận cấu thành không thể chia cắt của lãnh thổ Trung Quốc, hơn nữa quyền quản lí này xưa nay chưa từng gây tranh cãi. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, eo biển Quỳnh Châu luôn được quản lí với tư cách là eo biển nội hải, trong “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 đề cập đến eo biển này chỉ là muốn nhắc lại một sự thật: Với tư cách là một đường thủy hẹp (rộng khoảng 9,8-19 hải lí) có hai bờ hoàn toàn thuộc về lãnh thổ Trung Quốc, eo biển Quỳnh Châu là đường thủy thuận tiện của nội hải Trung Quốc, Trung Quốc có quyền cấm tàu thuyền nước ngoài, đặc biệt là tàu quân sự nước ngoài đi qua . Nhưng khi ấy một số cường quốc biển lại thường viện dẫn phán quyết của Tòa án quốc tế năm 1949 đối với “Corfu Channel Incident” để làm căn cứ luật pháp cho các tàu quân sự có quyền đi qua eo biển Quỳnh Châu, điều này là hết sức vô căn cứ. Eo biển Corfu là eo biển nằm giữa Anbani và Hi Lạp được sử dụng làm eo biển vận chuyển hàng hải quốc tế, năm 1946, quân hạm Anh khi đi qua bờ phía Anbani đã bị phía Anbani cho là chưa được sự phê chuẩn trước, vì thế đã bắn đạn pháo vào quân hạm Anh. Sau sự việc này, hai nước đã đệ trình tranh chấp lên cho Tòa án quốc tế phán quyết, năm 1949, trong bản phán quyết của mình, Tòa án quốc tế đã cho rằng vào thời bình, các nước có quyền đưa tàu quân sự của mình đi qua không phạm tội các eo biển được dùng làm đường vận chuyển hàng hải quốc tế ở giữa hai vùng biển mà không cần phải được phê chuẩn trước. Qua đây có thể thấy, eo biển Corfu là eo biển được dùng làm đường vận chuyển hàng hải quốc tế nối liền vùng biển giữa hai quốc gia, còn cả hai bờ của eo biển Quỳnh Châu thì đều thuộc về Trung Quốc, đồng thời nằm bên trong đường căn bản lãnh hải, thuộc về nội hải, địa vị pháp luật của cả hai bờ là như nhau, không thể đánh đồng làm một. Ngoài ra, vị trí của eo biển Quỳnh Châu không tạo thành yếu lộ hoặc đường thông duy nhất cho giao thông trên biển quốc tế, phía ngoài eo biển có đường hàng hải cũng thuận tiện về hàng hải và đặc điểm thủy văn, vì thế, eo biển này về bất cứ ý nghĩa nào cũng đều không thể tạo thành eo biển được dùng làm đường vận chuyển hàng hải quốc tế. (3) Để chăm lo cho sự thuận lợi về vận chuyển hàng hải của đất nước, đồng thời lại phải bảo đảm được sự an toàn về mặt quốc phòng, Trung Quốc cho phép tàu buôn nước ngoài được đi qua eo biển theo những điều kiện và sự quản lí nhất định. Tháng 6 năm 1964, Quốc vụ viện đã công bố “Điều lệ về quản lí tàu thuyền phi quân dụng có quốc tịch nước ngoài được đi qua eo biển Quỳnh Châu”, nhấn mạnh “căn cứ theo Tuyên bố về lãnh hải của chính phủ nước CHND Trung Hoa, eo biển Quỳnh Châu là nội hải của Trung Quốc, tất cả mọi tàu thuyền quân dụng có quốc tịch nước ngoài đều không được đi qua. Tất cả mọi tàu thuyền quân dụng có quốc tịch nước ngoài nếu như cần đi qua, đều buộc phải xin phép theo qui định trong bản Điều lệ này.” [5] (pp. 8990) Qui định này đã có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền nội hải, củng cố quốc phòng, phát triển buôn bán quốc tế của nước ta.

Thứ tư, về vấn đề qua lại lãnh hải.

Tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi vào nội hải của một nước, tàu thuyền nước ngoài được hưởng quyền đi qua không phạm tội ở cả trong và ngoài lãnh hải. “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 của nước ta qui định: “Tất cả các máy bay và tàu quân dụng của nước ngoài, chưa được phép của chính phủ nước CHND Trung Hoa, đều không được đi vào lãnh hải và vùng trời lãnh hải của Trung Quốc. Bất cứ tàu thuyền nước ngoài nào đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc cũng đều phải tuân thủ các pháp lệnh có liên quan của chính phủ nước CHND Trung Hoa”. [5] (pp. 12) cũng có nghĩa là Trung Quốc thừa nhận và tôn trọng qui định về đi qua không phạm tội trong lãnh hải của Luật biển quốc tế, nhưng phải ứng xử khác nhau tùy theo tính chất không giống nhau của tàu quân sự và tàu buôn.

Vì lợi ích của vận chuyển hàng hải quốc tế, các tàu buôn nước ngoài có thể tự do đi qua không phạm tội lãnh hải của Trung Quốc theo thông lệ Luật quốc tế, đi qua không phạm tội chỉ việc tàu buôn nước ngoài, với điều kiện không gây tổn hại đến hòa bình, an ninh và trật tự của các nước ven biển, đồng thời tuân thủ các mọi luật pháp và qui định có liên quan, có quyền tiếp tục dừng lại để đi qua thật nhanh lãnh hải của một nước, mà không cần phải được sự chấp thuận của nước ấy.

Việc đi lại của tàu quân sự không hề là cần thiết cho vận chuyển hàng hải vì sự nghiệp hòa bình nói chung, cho nên, các tàu quân sự đi qua lãnh hải không phạm tội không hề là đòi hỏi cho “lợi ích chung” của sự giao lưu quốc tế. Nhưng tàu quân sự Mĩ khi ấy lại tự động xâm nhập vào lãnh hải nước ta dưới sự che đậy của điều gọi là “quyền đi qua không phạm tội” giống như với tàu buôn, đồng thời tuyên truyền một cách lừa bịp rằng “quyền đi qua không phạm tội” phù hợp với cả tàu quân sự. Thực ra luận điệu này là hết sức sai lầm, là hùn sức cho việc thực thi bá quyền trên biển của họ: (1) Tàu quân sự đi qua lãnh hải gây hiểm họa tiềm tàng cho an ninh của các nước ven biển, không thể đánh đồng với việc đi qua lãnh hải của tàu buôn thông thường, sao có thể nói đến chuyện đi qua “không phạm tội”, vì thế, việc muốn cho các nước có liên quan không có phản ứng trước việc có thể có những hạm đội nước ngoài mang lòng thù địch đi qua ngoài khơi của mình là không công bằng, ngay cả những tàu quân sự nước ngoài được một số nước cho phép đi qua không phạm tội ở vùng lãnh hải của họ cũng là dựa trên sự nhân nhượng quốc tế, không hề giống với thông lệ quốc tế của các tàu buôn đi qua lãnh hải, nên không thể lấy việc tàu buôn được quyền đi qua lãnh hải nước khác là lí do để biện giải cho quyền tàu quân sự được đi qua. (2) Theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nước bên bờ hoàn toàn có quyền quyết định xem có cho phép tàu quân sự nước ngoài được đi vào lãnh hải nước mình hay không. Thực tế, rất nhiều nước (như Bungari…) đã phản đối quyền tàu quân sự được đi qua không phạm tội, mà chủ trương thực hành chế độ phê chuẩn hoặc thông báo trước. (3) Xét từ góc độ luật quốc tế, người ta thường cho rằng tàu quân sự đi qua lãnh hải cần phải được sự chấp thuận trước của nước ven biển, như Hội nghị La Hay về pháp điển hóa Luật quốc tế năm 1930 và Ủy ban Luật quốc tế năm 1956 đều nhấn mạnh việc tàu quân sự nước ngoài đi qua lãnh hải phải được sự chấp thuận hoặc thông báo trước của nước bên bờ, nhưng “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc năm 1958 thì lại qui định mù mờ rằng tất cả mọi tàu thuyền đều có quyền đi qua không phạm tội ở các vùng lãnh hải. Một số quốc gia cho rằng từ “tàu thuyền” bao gồm cả tàu thuyền quân dụng để ủng hộ cho việc các tàu quân sự được hưởng quyền đi qua không phạm tội, một số quốc gia khác thì cho rằng từ “tàu thuyền” chỉ chỉ tàu buôn, còn tàu thuyền quân sự thì khi đi qua lãnh hải phải được sự chấp thuận trước của nước bên bờ. Dĩ nhiên sự khác nhau trong các cách giải thích này chủ yếu là trong nội bộ các nước đã kí kết, còn đối với các nước không kí kết là vô hiệu, Trung Quốc không tham gia Hội nghị lần ấy. Hơn nữa, tham gia Hội nghị biển lần thứ nhất năm 1958 lại là các cường quốc biển, phần lớn các nước đang phát triển thuộc Thế giới thứ ba khi ấy lại chưa độc lập, vì thế mà số các nước Á-Phi-Mĩ latinh tham gia Hội nghị lần này chưa được một nửa. Trước tình hình ấy, qui định được đưa ra trong Hội nghị này đã phản ánh lợi ích của các cường quốc biển, không thể đại diện được ý kiến, nguyện vọng, yêu cầu và lợi ích của đại đa số các nước, và cũng không nên mở rộng sự ràng buộc đối với các nước đang phát triển. Trong số các nước kí kết có không ít nước (như Rumani…) tuyên bố bảo lưu qui định này, cho nên không thể nói đó là một nguyên tắc luật quốc tế phổ biến. Ngoài ra, Hội nghị lần này cũng thừa nhận tàu quân sự nước ngoài phải tuân thủ mọi pháp lệnh và điều lệ có liên quan đến lãnh hải đã được nước bên bờ chế định, đương nhiên những điều lệ này cũng có thể bao gồm cả yêu cầu phải được sự cho phép trước. (4) “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 của nước ta qui định tàu quân sự nước ngoài phải được phép trước thì mới được đi vào hoặc đi qua lãnh hải nước ta, qui định này vừa xem xét đến nhu cầu an ninh quốc gia, lại vừa lưu ý đến cả mức độ có thể tiếp nhận về mặt quốc tế, đồng thời cũng hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và thực tiễn quốc tế, vì thế là tương đối phù hợp.

III. Đánh giá bản “Tuyên bố lãnh hải”

Thiết lập chế độ lãnh hải là biện pháp tốt nhất để nhà nước thực thi được sự điều hành và quản lí một cách có hiệu quả vùng biển duyên hải của mình, “Tuyên bố lãnh hải” của Trung quốc năm 1958 được chế định căn cứ trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia, dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn quản lí lãnh hải của nước ta và kết hợp với thực tiễn quốc tế, việc công bố nó đánh dấu sự thiết lập bước đầu chế độ lãnh hải của nước Trung Quốc mới, có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc bảo vệ chủ quyền lãnh hải thiêng liêng của nước ta.

Bảo vệ chủ quyền lãnh hải của nước ta là một nguyên tắc chủ yếu nhất, cơ bản nhất trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt được lãnh hải 12 (mới sửa lại, ban đầu là số 2) hải lí là một đại chính sách có liên quan đến lợi ích căn bản của dân tộc quốc gia. Một mặt, “Tuyên bố lãnh hải” lựa chọn chính giữa thời điểm quân ta pháo kích vào Kim Môn để công bố là việc đã được xem xét cân nhắc kĩ lưỡng, điều này là tỏ rõ cho thế giới biết rằng chiến sự xảy ra bên trong đường lãnh hải của Trung Quốc khi ấy hoàn toàn là chuyện nội bộ của Trung Quốc, tất cả các nước đều không có quyền can thiệp. Mặt khác, khi tàu quân sự và máy bay quân dụng Mĩ lợi dụng chuyện Đài Loan … liên tục xâm nhập vùng duyên hải Trung Quốc để tiến hành các hoạt động gây hấn, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh nước ta, việc nước ta cho công bố “Tuyên bố lãnh hải” lại càng hết sức đúng đắn, kịp thời, điều này chứng tỏ nhân dân Trung Quốc quyết không cho phép bất kì hành vi nào có mưu đồ can thiệp vào chủ quyền nước ta. Như ngày 7 tháng 9 năm 1958, tàu Mĩ bắt đầu hộ tống cho tàu thuyền của Quốc Dân Đảng đến Kim Môn. Người phát ngôn Bộ ngoại giao lần đầu tiên đã căn cứ vào nguyên tắc của “Tuyên bố lãnh hải” để nghiêm khắc cảnh cáo tàu Mĩ xâm nhập lãnh hải trung Quốc. Ngày 29 tháng 9 năm 1958, Bộ ngoại giao gửi công hàm cho Đại biện lâm thời Anh tại Trung Quốc nhấn mạnh “Tuyên bố lãnh hải” của Trung Quốc được áp dụng đối với với tất cả mọi máy bay, tàu thuyền và cá nhân nước ngoài. “Tuyên bố lãnh hải” hoàn toàn phù hợp với lợi ích kinh tế và quốc phòng của nước ta, phản ánh đúng đắn ý chí của nhân dân Trung Quốc, đồng thời cũng phù hợp với thông lệ các nước và chuẩn tắc của luật quốc tế, vì thế mà đã giành được sự ủng hộ nhiệt thành của dư luận công tâm trên thế giới. Ngày 9 tháng 9 năm 1958, chính phủ Liên Xô đã gửi công hàm cho chính phủ nước ta biểu thị hoàn toàn tôn trọng quyết định về lãnh hải của nước ta, đồng thời “tuân thủ chặt chẽ giới hạn lãnh hải của nước CHND Trung Hoa là 12 hải lí theo như qui định của chính phủ nước CHND Trung Hoa”. [7] (p. 2340) Ngày 14 tháng 9 Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng đã gửi công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, trịnh trọng biểu thị chính phủ Việt Nam “thừa nhận và tán đồng” với bản “Tuyên bố lãnh hải” của nước ta, đồng thời “tôn trọng quyết định này”. [8] (p. 180).

Song do hạn chế bởi nhiều nhân tố mà “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 chỉ là bản tuyên bố mang tính nguyên tắc, vẫn thiếu đi những qui định cụ thể:

Thứ nhất, phạm vi lãnh hải cần phải đợi để minh xác thêm. “Tuyên bố lãnh hải” tuy đã công bố độ rộng cùng phương pháp hoạch định lãnh hải, nhưng các điểm căn bản của đường căn bản được dùng để hoạch định lãnh hải vẫn chưa được xác định và công bố với bên ngoài, từ đường căn bản lãnh hải của nước ta cho đến giới hạn vùng ngoài lãnh hải vì thế cũng chưa được hoạch định và có công bố cuối cùng. Khi ấy, chính quyền trung ương đã xem xét đến cuộc đấu tranh ở vùng biển Đông Nam là rất phức tạp, nếu như vạch dấu cụ thể đường lãnh hải thì sẽ lại trói buộc mất chân tay mình. Không công bố thì chúng ta sẽ có thể tiến mà cũng có thể lùi khi xử lí các vấn đề cụ thể, sẽ linh hoạt thuận tiện hơn nhiều về mặt chiến thuật và về mặt sách lược. Điều này khi ấy là hoàn toàn cần thiết, nhưng đồng thời cũng đã để lại những vấn đề nhất định. Sự thiếu chính xác về phạm vi cụ thể của lãnh hải gây bất lợi cho việc phân biệt những phương tiện lưu thông trên biển và trên không, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự thừa hành bình thường quyền quản lí lãnh hải của nước ta, do giới hạn vùng ngoài lãnh hải nước ta chưa được công bố với bên ngoài, nên thường trở thành cái cớ để các tàu thuyền vi phạm nước ngoài chối bỏ trách nhiệm. Cho đến tháng 5 năm 1996, nước ta mới chính thức công bố bản “Tuyên bố của chính phủ nước CHND Trung Hoa về đường căn bản lãnh hải nước CHND Trung Hoa”, và cuối cùng đã xác định được phạm vi cụ thể của lãnh hải.

Thứ hai, trong “Tuyên bố lãnh hải” không công bố đồng thời vùng tiếp giáp lãnh hải, mà khu vực này lại là hết sức quan trọng cả về bảo vệ an ninh biển quốc gia lẫn về bảo vệ lợi ích biển của nước ta. Vùng tiếp giáp là vùng biển riêng biệt có độ rộng nhất định tiếp liền lãnh hải của một nước, là vùng biển nhà nước thừa hành chủ quyền. Ở trong vùng tiếp giáp này, các nước ven biển có thể chế định ra các pháp lệnh và chế độ điều lệ để thừa hành một quyền quản lí riêng biệt nào đó để bảo vệ nghề cá, quản lí hải quan, kiểm tra ngăn cấm buôn lậu, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, quản lí di dân, và để bảo vệ cả nhu cầu về an ninh. Qua đây có thể thấy, vùng tiếp giáp chủ yếu đóng vai trò là “vùng đệm” hoặc “vùng kiểm tra”, loại trừ ra bên ngoài đất nước mọi hành vi phạm pháp và bất lợi cho an ninh quốc gia, nhằm bù đắp cho sự quản lí khó lòng đạt hiệu quả bởi độ rộng lãnh hải không đủ. Vì thế, ở các nước đồng thời với việc định ra chế độ lãnh hải thường đều vạch luôn cả vùng tiếp giáp một cách tương ứng để có thể quản lí lãnh hải cho tốt hơn. Như tháng 7 năm 1956, Vênêxuêla trong Luật lãnh hải của mình ngoài việc qui định lãnh hải 12 hải lí ra, còn qui định cả vùng tiếp giáp 15 hải lí, để quản lí mọi công việc về hải quan, y tế…; vùng tiếp giáp lần đầu tiên được đưa vào trong “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp” được thông qua tại Hội nghị biển lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc năm 1958, cỏn nước ta thì cho đến năm 1992 mới đưa ra qui định rõ ràng về vùng tiếp giáp lãnh hải.

Thứ ba, cả một thời gian rất dài sau khi công bố bản “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 vẫn chưa đưa ra được những qui định hoàn chỉnh, toàn diện về vấn đề quản lí trong vùng lãnh hải thông qua hình thức lập pháp trong nước, để bản “Tuyên bố lãnh hải” được cụ thể hóa về nguyên tắc. Những vấn đề chưa được qui định trong “Tuyên bố lãnh hải”, như quyền sở hữu và quyền độc quyền tài nguyên thiên nhiên, quyền độc quyền các nghiên cứu khoa học về biển, quyền quản lí bảo hộ và bảo toàn môi trường biển, quyền quản lí tư pháp…, nước ta thường giải quyết theo thông lệ quốc tế hoặc luật quốc tế, nhưng do chưa có khâu lập pháp trong nước tương ứng mà khi thực hiện thường có những độ khó nhất định, nhất là những mâu thuẫn trong các sự vụ có liên quan đến nước ngoài lại càng nổi rõ. Như “Tuyên bố lãnh hải” sau khi công bố đôi lúc vẫn phát sinh những hoạt động phạm pháp như tàu thuyền nước ngoài tùy tiện dừng đỗ, xả thải bất hợp pháp, ngang nhiên đi vào vùng lãnh hải nước ta đánh cá, dìm tàu, dìm các vật bất hợp pháp, buôn lậu vi phạm các qui định hải quan của nước ta, trốn tránh sự giám sát hải quan, trốn thuế… Những hành vi này đã xâm phạm chủ quyền lãnh hải và lợi ích biển của Trung Quốc, song do thiếu các qui định luật pháp rõ ràng và những thủ pháp chấp pháp cần thiết, các cơ quan hữu quan khó lòng mà đánh trả hoặc xử lí được một cách kịp thời, hữu hiệu những hành vi phạm pháp ấy, cuối cùng là chẳng được gì. Như với những tàu cá nước ngoài đánh bắt cá phi pháp trong lãnh hải Trung Quốc, Trung Quốc thường chỉ thông qua chấp pháp mà dùng tàu thuyền đuổi đi. Cho đến khi “Luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp của nước CHND Trung Hoa” được thông qua tháng 2 năm 1992, thì mới thực hiện việc quản lí biển bằng luật pháp một cách thực sự.

Cho dù vì những nguyên nhân khác nhau, “Tuyên bố lãnh hải” năm 1958 vẫn còn tồn tại một vài điểm đáng tiếc, song nhìn chung chế độ lãnh hải do nước Trung Quốc mới xác lập về cơ bản là thành công, những nguyên tắc cơ bản được qui định trong đó về sau đều được kế thừa trong “Luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp của nước CHND Trung Hoa”, đã phát huy tác dụng tích cực trong các phương diện bảo vệ an ninh lãnh hải quốc gia, bảo vệ quyền lợi biển, phát triển giao thông trên biển…

Thư mục tham khảo:
[1]《毛泽东选集》第2卷,人民出版社1991年版,第628
[2]
崖:《中外旧汇编》第1册,三联书1982年版,第936
[3]
霞:《国公法学参考料》,中央广播电视大学出版社1985年版,第177179
[4]
周忠海:《国法学述》,法律出版社2001年版,第298
[5]
国家海洋局政策法规办公室:《中人民共和国海洋法规选编》,海洋出版社2001年版,第12
[6]
杨泽伟:《宏法史》,武大学出版社2001年版,第425
[7]
《中人民共和国国史全委会:《中人民共和国国史全》第2卷,团结出版社1996年版,第2338
[8]
理海:《当代国问题》,中国法制出版社1993年版,第180
NGUYÊN VĂN TIẾNG TRUNG:
1958年《中人民共和国政府关于海的声明》研
【内容提要】根据国家主,在总结中国海管理的理践的基上,合国际实践和公的国法原 1958年中国政府布了《中人民共和国政府关于海的声明》,志着新中国海制度的初步建立,这对中国海主维护海洋利益、展海上交 往、巩固海防等都具有重大的意
【摘 】共和国史研究
【关 //海基线/内海/无害通过权
【正 文】
海是指沿海国的主及于其土及其内水以外接的一海域,它是国家土在海中的延,与国家土的其他部分一,沿岸国对领海内的一切人和物享有 完全的、排他的属管辖权。中国濒临太平洋西岸,有和利用的近我国大岛屿的海域十分广了有效行使海主和管辖权,保国防安全,维护 海洋利益,根据国际实践和公的国法原195894日,第一届全国人民代表大会常会第100次会批准通了《中人民共和国政府关于 海的声明》(以下称《海声明》)
一、《海声明》表的史与代背景
1840
年之后,在西方列船利炮的攻下,中国海洋门户洞开,沿岸航运、港口管理、内河航行等海洋失殆尽:帝国主根据不平等条 ,控制了中国一切重要的通商口岸,……控制了中国的海关和易,控制了中国的交通事(海上的、上的、内河的和空中的)”[1] 西方列的海上入侵,旧中国对领问题有所注意,但是并没有真正建立起独立的海制度。如1899年清朝与墨西哥缔结的《友好通商条定:彼此均以海岸去地3力克(9海里)水界,以退潮时为里的水界在一定程度上具有海的意,但它的目的是:界内由本国海关章程切 行,并法巡以杜走私、漏税[2] 代意上的海有所不同。民国照搬英、美等国的度和划法,定中国海范围为3海里,私里程(即毗)12海里,海范自低潮 线(即正常基线)算起。这样狭窄的实际中国不利,因像中国这样贫穷落后的国家不会去侵犯一个国的海,而国却可以肆无忌惮到中国近海 所欲。而且由于旧中国治者腐无能,内河航行都拱手让给了西方列,以至于外国商船军舰可以自由地出入我国海横行霸道,而且可以在中 国内河长驱直入。旧中国有海无防、海及毗区形同虚的状况留下了惨痛的史教
1949
年新中国成立后高度重视领海主除了近代不平等条,在开、利用、管理海等方面入了一个新的段,布了一系列涉及问题 制度:(1)有关港口管理和港务监问题1954布了《海港管理行条例》;(2)有关船舶管理问题1957布了《外国籍船舶出港口管理 法》;(3)有关海峡管理问题1956保障渤海湾航行安全布了《关于商船通山水道的定》;(4)有关海洋水产资源保政管理 1955布了《关于渤海、黄海及海机拖网渔业区的命令》;(5)有关海关管理问题1951布了《中人民共和国行海关法》; (6)有关沿海岛屿权问题1951年周恩来在《关于美英日和草案及旧金山会的声明》中西沙群和南威正如整个南沙群及中沙群 沙群,向中国,因此,新中国在南威和西沙群岛拥有不可侵犯的主。中国人民也决不容美国政府期侵占中国的土台湾,并在任何候都 不放弃解放台湾和澎湖列的神圣任。”1956年,我国外交部言人在《关于南沙群权问题的声明》中指出:中国于南沙群的合法主不容 任何国家以任何借口和采取任何形式加以侵犯[3] 除了些涉及问题章制度和声明外,当一些家学者也开始真研究问题,如海商法家魏文汉强调应该合考我国沿海的具 体情况、国防与安全、人民福利等情况之后做出决定,他认为中国使用直线线法来划定度,其度不少于12海里。195712月,合国第一 次海洋会在日内瓦开幕前夕,《人民日》刊登了一篇题为海主与公海自由》的文章,批了美、英等国所主3海里法一般范的 大多数国家的践表明,海的由沿海国根据其习惯经济利益和国家安全自己自由决定[4] 建国初期有关海的管理措施和家学者关于问题的研究成果1958年我国《海声明》的表提供了一定的理
现实直接原因来看,朝鲜战争爆后美国决定以武力阻止中国大解放台湾,命令海第七舰队台湾海峡。朝鲜战束后美国不但继续赖在台湾不走,而且 不断地派军舰明目胆地侵入厦等沿海地区,并派海军战斗机侵入福建、广等省的海上空,我国的侵略范。美国种露骨的事挑衅是我国 重侵犯,此,我国政府曾一再提出重警告和谴责。可1958年中国表《海声明》主要是针对美国以武力非法霸占台湾、造成台湾海峡 的,以一步向全世界明新中国政府在问题上的度和立。另外,当日本等国家的一些代化还经常到中国的渔场进行非法捕,中国政府 提出抗,人家却起眼睛装。由于没有法律依据,很达到有力惩处的目的。
从国上来看,一方面,一些国了有关问题的法律文件,如1930年海牙国纂会议拟订了关于《海的法律地位》的 告,19501956年国法委会草了海洋法公草案,特195824月在日内瓦行的合国第一次海洋会的《海与毗区公》以 的形式确了各国建立海的利,这为中国《海声明》的表提供了一定的国法依据。另一方面,当第三世界开展了海主的斗 争,1947年首先由智利和秘掀起了争取和维护200海里海洋的斗争,接着哥斯达黎加、萨尔瓦多等国也相提出了似的要求,出了向海洋大沿海国 和管辖权史潮流。1954年厄瓜多、墨西哥等采取了一系列保本国海和渔业资源的有力的实际措施,于擅自入本国海和管内的 海洋大国决抗、拘捕和款,些都中国《海声明》的表提供了宝经验
二、《海声明》的主要内容
1958
年的《海声明》主要新中国的海制度作了如下几基本定:
第一,关于问题度是指从海的基线起至其最外沿线的距离。此,《海声明》定:人民共和国的12海里 ()这项规定适用于中人民共和国的一切土,包括中国大及其沿海岛屿,和同大及其沿海岛屿隔有公海的台湾及其周、澎湖列沙群、西 沙群、中沙群、南沙群以及其他属于中国的岛屿这项规定体了国家主,完全符合中国人民的利益,也是符合当的国法准的。但是,当 些帝国主国家把我国12海里的成是不能接受的,如美国拒不承我国的《海声明》,认为法只承3海里海,中国没有12 里的度。英国也表示不承3海里以上的海,并照会我国政府海声明》表示异。美、英法和做法是毫无道理的,是中国主的粗暴干涉。
任何国家都有确定自己的度:(1)国家的一种主,沿海国家所确定的度一旦宣布便立即生效,无需国的承国也无提出释义 一主张实际上是基于这样一种点:即国法的主体主要是主国家,任何人都不能其主加以限制。(2)一国的海究竟当多,当各国之并没有一 致的协议期以来国法也没有关于度的定,各国从来都是自主确定本国的度。(3)世界上各地区沿海的自然条件各不相同,国家的海域接 界情况是多种多的,各国经济发展和国家安全的需要也互有差,因此,要求所有国家都有相同的度就等于所有国家的地理条件是相同的,是极 的。(4)沿海国有在考虑历史、地理、经济、社会、国防等因素以及相国家的合法利益和国航行的便利的基上合理确定自己的度。
3
海里并不像美、英所榜的是度的唯一界限,也不是国法普遍接受的规则(1)史上关于海的度有各种各法,如航程、海上要 围墙说、大炮射程等等,其中3海里度起源于大炮射程1703年,荷法学家刻舒克提出沿海国控制近海的度以大炮射程限,当大炮射程 约为3海里,因此,1782年意大利法学家加林尼建3海里作为领海的度。后来,英、美等国家根据一思想相继实行了3海里的度。但是, 武器日新月异,越来越向精确、程、智能化方向展,另外,在海运方面技展和其他方面的技术进3海里规则不能不生重大影响,因此,3海里 过时(2)由于各国的海岸情况不一以及各种利益不一致,所以,与当3海里同并存的有以下几种:丹麦等国4海里的度;希腊等 6海里的度;墨西哥等国9海里的度;苏联等国12海里的度;厄瓜多等国15海里的度;萨尔瓦多等国 200海里的度。由此可,各国的度极不一,3海里度只是海洋大国的一种主,不能以此来否定或反3海里以上度的合法 性。(3)第二次世界大战结束之后,取得民族独立的新国家一般主张较宽阔海,以达到维护本国的安全、保其海洋源、展本国经济的目的。在种情 况下,主3海里海的国家逐减少,而主12海里的国家在增加。到1958年中国表《海声明》,世界上宣布12海里的国家有苏联、印度尼西 15个国家,因此,我国政府也自然有充分的利和根据定自己的12海里。
美、英等国持狭窄的3海里实质上是旧殖民主政策的反映。当世界上3海里度的国家多数是大的海力量、广泛行海上活的海 国,些海洋国的地盘别人没有能力去也不敢去,而人的地舰队却可以随便去。另外,它有既得的海上利益,需要持尽可能狭窄的海以确保 最大的公海区域作其海上船游弋的所。因此,美、英反它国不是从所航行的利益出,而是最大限度地接近国海岸,掠夺这 国家水中的自然源,事挑衅以及其他敌对。当美国连续不断地派遣军舰机侵入中国海和海上空,争挑衅和大侵略范,正是它 3海里度奉金科玉律的最好注解。
第二,关于海基线问题了明确海范,一般要确定一条度的起始线,即海基线(也就是度的内部界限)。基线是国家的内海, 线向海一侧则为领海水域。海基线有正常基线和直线线两种划法反映了海岸地理情况的差异:在海分界明、海岸线平直的海岸一般采用正常基线 法,即以低潮线线。在海岸非常弯曲、沿岸又多岛屿的情况下一般采用在沿海大上和岛屿上各定一些基点,在每两个基点划出直线些直线构成 线,也就是直线线法。1958年我国的《海声明》宣布不再以旧中国的低潮线(即正常基线)起始线,而采用直线线法:中国大及其沿海岛屿 海以接大岸上和沿海岸外缘岛屿上各基点之的各直线为线,从基线向外延伸12海里()的水域是中国的海。种直线线法符合中国海岸线蜿蜒曲 折、沿海多岛屿实际情况,是非常合理的。
由于每个国家的地理条件不同,不可能制定一的算方法适用于一切国家,所以同决定度一每个国家也可以决定自己度的算方法。我国采用直线 线法不但是合理地行使自己不可剥的主,而且也是符合国际实践和国法的。早在1812年,挪威考到它的沿岸特曲折,在皇室公告中就确 种划法,并在1935年国王敕令中采用种划法来确定挪威捕区范。由于直线线围入的水域是英国去的捕区,因此,英国竭力反对这种划法。后来两国 将争提交国法院,1951年国法院裁定挪威划定捕区的方法不反国法,就确了直线线法的合法性。此后,冰、印度尼西等国也相采用了 种划法。由于种划法比方便,而且能比正常基线扩大国家主下的内海和海面越来越多的国家所采用。1958合国第一次海洋会 的《海和毗区公》以国的形式肯定了种划法:遇有海岸线凹入甚深或岛屿紧接海岸,在划定度起算的基线时可采取直线线连接适当的各点的 方法。当然中国也可以根据自己的需要和沿海地理面貌使用直线线法划定自己的度。
第三,关于中国内海问题。内海也叫内水,是指一国海基线以内的水域,如同土一,内海是沿海国土的成部分,其法律地位与土相同。 1958年我国的《海声明》定:在基线以内的水域,包括渤海湾、州海峡在内,都是中国的内海。在基线以内的岛屿,包括、高登祖列 白犬列乌岛、大小金门岛、大担、二担在内,都是中国的内海岛屿”[5] 里有两个问题需要明一下:
关于渤海湾问题(1)认为对于沿岸属于一国土的海湾可在一定条件下作沿岸国的内海,如1958合国第一次海洋会的《海和毗区公 定:如果海湾的湾口度不超24海里,湾口封闭线所包的水域内海;如果湾口度超24海里,湾内24海里的直线线所包的水域才是内 海,但此项规定不适用于史性海湾(2)史性海湾是指那些海岸属于一国,沿岸国对该海湾长时期行使主,并且其他国家此表示同意或默的海湾, 其湾口度是否超24海里,都被视为沿岸国的内海,如苏联1957年宣布大彼得湾为历史性海湾,其湾口110海里。渤海湾就属于中国的史性海 湾,可以用一个史事实证明:1864年,当普士与丹麦在欧洲作候,普士公使李福斯乘军舰在渤海湾内捕3艘丹麦商船。当清朝认为这件事 生在中国专辖之内洋”(即中国内海)并非各国公共海面显夺中国之,并引成中文的国法提出抗丹国任其实为 中国保其。在以国法原则为依据的抗和清廷将不接待普士公使的威下,普士照会自任咎在普国,于是放了3艘丹麦商船。[6] 件事充分明渤海湾自古以来就隶属于我国主之下,受到中国政府的有效控制和管理,早已被公认为中国内海。(3)从渤海湾的地理特征来看,它的湾口 45海里,但湾口排列着庙岛等一系列岛屿,形成了8个入口,其中最大的一也不22.5海里,在24海里以内,即使根据1958合国第一次 海洋会的《海和毗

是一篇关于《1958年《中人民共和国政府关于海的声明》研究》的文章,此文章《1958年《中人民共和国政府关于海的声明》研究》由中国学术论文中心您提

LUNWEN2.COM