chuẩn cmnr :D - em tks bác, giờ em đã bik tại sao
mỗi khi tình cờ nghe các vị í phát biểu trên TV em lại bị tăng xông chỉ muốn
cầm cái thước vụt vào cái mỏ các vị í và hỏi: cái j? nói rõ ra xem nào? nghĩa
là j? dkm nói như căng củ cọt ... mỗi lần hỏi là 1 thước các bác ợ :))
P/S: em bổ sung còn 2 câu
"nhạy cảm" và "thế lực thù địch" nữa ạ
Sẵn dịp bàn về danh ngôn, tôi muốn chia sẻ cùng các
bạn vài nhận xét và phân tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo VN.
Có khi nào các bạn tự hỏi tại sao người ta không muốn đọc những bài viết của
giới lãnh đạo, và khi họ viết hay nói ra cái gì thì rất ít người đọc. Người đọc
thì chê (ví dụ như bài của vị nào đó trên Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy
lần like). Tôi tự hỏi câu này rất thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú
vị dưới đây, mà tôi nghĩ có thể giải thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo
VN kém hấp dẫn. Đây là bài viết còn ở bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý
mới.
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ
nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu
họ đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm
cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn như khi
nói về những việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17, thủ tướng Úc nói “Mục
tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá
cố và người đang sống”. Đó là một câu có thể trích dẫn.
Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không
có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với
đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ
quen thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu
quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc
qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có
thể chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có thể nói rằng thói quen phát biểu chung chung là
đặc điểm số 1 của chính khách VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất
cả chỉ chung chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt
là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường
đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước”. Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin
nào, mà tất cả chỉ là những rhetoric tầm thường, giống như những khẩu hiệu được
nối kết với nhau. Chúng ta cũng không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất
chung chung là “phức tạp”. Hai chữ “phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN,
đụng đến cái gì họ không giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn
thay thế bằng hai chữ “phức tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74
chữ, chúng ta không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu
nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện
nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng
lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son
trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam”. Chú ý những chữ
“mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận ngoại giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có
một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực
tế. Ví dụ như bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau
hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý
luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào văn hóa
đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng…
được phát huy”. Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”, “phát huy”, “hiệu quả
thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là
rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không
thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh họa. Chẳng có một ý
tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các
bài phát biểu là “đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát
biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành
cám ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc
thù xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe qua
“đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý
nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ
cực kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo VN quen tính nói rất
nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả.
“Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu
chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi
đọc xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như
phát biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ
phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý
kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng
tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân trao cho
Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của toàn dân, của
Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu quyết theo tinh
thần đó”. Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu. Lúc thì quyền năng nhân
dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội, lại còn
đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của nhân dân”. Câu chữ cứ nhảy nhót loanh
quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của
các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau. Có những khẩu
hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu
“Trong niềm tự hào, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn
với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới …”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn
hóa thế giới”. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc người ta cũng
lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì chẳng có gì sáng tạo,
chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây. Thật ra thì ông cụ đâu được công
nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự
hào là một “đặc sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào.
Điều này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người
dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng.
Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng,
nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những việc
làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con
người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta
ngày càng giàu mạnh”. Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh
hùng, con người anh hùng, vẻ đẹp văn hóa, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn
nghèo và phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người
vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng
và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn còn
rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại
xâm.
Thứ năm là … tự khen.
Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến tự mình khen mình là tài giỏi và vĩ đại,
và đặc tính này tôi thấy khá thường xuyên. Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỉ niệm 40 năm ngày 30/4: "Thắng lợi vĩ
đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật
quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng". Thật ra,
đó là tựa đề của bài viết, mà dài như thế! Nhưng một phần tựa đề này là những
khẩu hiệu chúng ta hay gặp trong suốt mấy thập niên qua. Cứ đề cập đến đảng là
phải kèm theo những tính từ như sáng tạo, lỗi lạc, đứng đắn, quang vinh, vĩ
đại, v.v. Tôi không bàn đến đúng hay sai về nội dung, mà chỉ muốn nói rằng rất
hiếm thấy một tổ chức hay cá nhân nào mà tự khen như thế. Người Việt có câu
"Hữu xạ tự nhiên hương", nếu mình làm điều tốt thì sẽ có người ghi
nhận, chứ không cần phải tự khen như thế. Tự khen 1 lần thì có lẽ cũng không
đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết năm này sang năm khác, và tự khen khắp nơi như
dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu lầm là một bệnh lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó
là một thói quen của các vị lãnh đạo, hay những người viết diễn văn cho các vị
ấy.
Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính hóa. Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ thấy phần lớn những bài nói
chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ nói với đảng viên, với quan chức,
công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ không phải nói với người dân. Có lẽ
chính vì thế mà ngôn ngữ của họ thường mang tính hành chính. Có những chữ mà
hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa thật của nó, như “Trong
thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước,
bảo vệ Tổ quốc”. Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn ngữ xa lạ
đối với người dân.
Những bài diễn văn của các chính khách phương Tây
thường rất sinh động, thực tế, và có khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo
phương Tây (tiêu biểu là Mĩ) khi họ nói chuyện dù là trong buổi lễ rất trang trọng,
mà họ vẫn làm cho khán giả vừa vỗ tay vừa cười. Khán giả cảm thấy gần gũi với
diễn giả. Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công
thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì nghiêm
trọng). Vì thế mà khi lãnh đạo VN nói chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức
là chính họ cũng cảm thấy nhàm chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ
tay theo kịch bản hơn là tự nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần
có lẽ do lãnh đạo VN chưa quen với văn hóa nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là
người quan trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó
gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai
bài nói chuyện quá xa rời công chúng.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này
không phải là độc quyền của các lãnh đạo VN, mà thỉnh thoảng các chính khách
phương Tây cũng vướng phải. Khi họ vướng phải, người dân biết vị chính khách đó
có vấn đề, hoặc là không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững
vấn đề nên họ nói chung chung. Có người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”,
nhưng thật ra đó chỉ là cách ngụy biện thô thiển. VN nói về hội nhập quốc tế,
nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi nghĩ các lãnh đạo VN sẽ rất
khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét