Nhãn

12 tháng 8, 2014

858. GS Trần Gia Phụng: HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG HỘI NGHỊ SAN FRANCISCO 1951

Posted by adminbasam on 07/08/2014


Giáo sư sử học Trần Gia Phụng sinh năm 1942 tại Duy Xuyên (Quảng Nam, Trung Phần), con trai nhà thơ Trần Gia Thoại. Giáo sư tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Huế, khoa Sử Địa và Cử nhân Giáo Khoa Sử Đại học Văn Khoa Huế năm 1965. Trước năm 1975, ông dạy tại Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng và là giảng viên Viện Đại Học Cộng Đồng Đà Nẵng. Từ 1995 cho đến nay, ông định cư tại Toronto, Gia Nã Đại.

Thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945, nhưng cho đến năm 1951 Hội nghị tại San Francisco (Hoa Kỳ) giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh mới diễn ra để Nhật Bản xác định lập trường hòa bình, từ bỏ chủ quyền trên các vùng đất Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến, bàn chuyện Nhật Bản bồi thường cho các nạn nhân và tù binh chiến tranh, cũng như quyết định chấm dứt quân đội nước ngoài chiếm đóng Nhật Bản và trao trả chủ quyền lại cho Nhật Bản.

1 - NHẬT BẢN THẤT TRẬN

Nhật Bản xâm lăng Mãn Châu năm 1931, lập ra Mãn Châu Quốc năm 1932, đưa vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi (Pu Yi, trị vì Trung Hoa 1908-1912) lên làm giám quốc vì nhà Thanh gốc người Mãn Châu. Nhật chiếm Nam Kinh (Trung Hoa) ngày 13-12-1937, gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng trong 6 tuần lễ, giết hại khoảng 300,000 dân Trung Hoa.

Ngày 25-11-1936, Nhật ký với Đức hiệp ước chống Đệ tam Quốc tế (Anti Cominter Pact) nhắm vào Liên Xô. Năm sau, Ý gia nhập tổ chức nầy ngày 6-11-1937. Ba nước còn ký Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin ngày 27-9-1940, thường được gọi là Trục Bá Linh–La Mã–Đông Kinh (Berlin–Roma–Tokyo Axis). Từ đó, trong khi Đức Ý tung hoành ở Âu Châu, thì Nhật bành trướng ở Á Châu.

Nhật đưa quân đến Đông Dương năm 1940, nhưng vẫn để Pháp cai trị Đông Dương. Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Hawaii), tàn phá hạm đội Hoà Kỳ ở Thái Bình Dương, giết hại 2,400 người Hoa Kỳ. Hôm sau (8-12-1941), Hoa Kỳ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn công Manila (8-12), đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm Bataan (9-4-1942), và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942).

Trong khi chiến tranh diễn ra càng ngày càng ác liệt tại Đông Á giữa lực lượng Đồng minh (gồm quân đội Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Quốc Dân Đảng) với quân đội Nhật Bản, thì Liên Xô vẫn tiếp tục bang giao với Nhật Bản vì Liên Xô ký hòa ước bất tương xâm với Nhật Bản từ ngày 13-4-1941. Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima (Nhật Bản). Liên Xô biết chắc chắn Nhật Bản sẽ đầu hàng, liền mời đại sứ Nhật tại Moscow đến bộ Ngoại giao Liên Xô lúc 5 giờ chiều ngày 8-8-1945 và ngoại trưởng Liên Xô Mikailovich Molotov thông báo cho đại sứ Nhật Bản biết rằng Liên Xô quyết định tuyên chiến với Nhật. (Basil Collier, The Second World War: a Military History, Gloucester, Mass: Pater Smith, 1978, tt. 529-530.)

Sáng sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn quân qua chiếm Mãn Châu và vùng đông bắc Trung Hoa, chỉ vài giờ trước khi Hoa Kỳ dội thêm quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. Liên Xô tiến quân chiếm luôn cả miền bắc bán đảo Triều Tiên. Cuối cùng, Nhật hoàng quyết định đầu hàng ngày 14-8-1945. Hiệp ước đầu hàng được ký kết trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông Kinh, do đại tướng Mac Arthur chủ trì.

Như thế, Liên Xô dựa vào thời cơ để nhập cuộc trong chiến tranh chống Nhật Bản năm 1945, thiệt hại không đáng kể mà hưởng lợi tối đa ở miền đông bắc châu Á.

2 - HỘI NGHỊ SAN FRANCISCO

Sau chiến tranh, đất nước Nhật Bản kiệt quệ, kinh tế suy thoái. Nhật Bản thay đổi chính sách, từ bỏ chế độ quân phiệt, từ bỏ tham vọng đế quốc, ban hành hiến pháp hòa bình ngày 3-11-1946, có hiệu lực từ 3-5-1947. Theo hiến pháp mới, Nhật Bản theo đại nghị chế, Nhật hoàng chỉ còn giữ địa vị tượng trưng. Đặc biệt điều 9 chương II hiến pháp quy định Nhật Bản không có có Hải, Lục, Không quân và chính phủ Nhật Bản từ nay không được quyền tuyên chiến.

Hoa Kỳ là nước có quân chiếm đóng Nhật Bản đồng thời viện trợ cho Nhật Bản tái thiết đất nước. Cuộc thương thuyết giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ đưa đến hai hội nghị hòa bình San Francisco từ ngày 4 đến ngày 8-9-1945. Hội nghị thứ nhất gồm có 51 quốc gia tham dự trong đó có cả Nhật Bản, đưa đến Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản (Treaty of Peace with Japan). Hội nghị thứ hai giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản đưa đến Hiệp ước An ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (Security Treaty between United States and Japan). Chuyện giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản không nằm trong bài viết nầy.

Hội nghị 51 nước tham dự theo thứ tự ABC là: Argentina, Australia, Belgium, Bolivia, Brazil, Cambodia, Canada, Ceylon, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba,Czechoslovakia, Dominican Republic, Ecuador, Egypt, El Salvador, Ethiopia, France, Greece, Guatemala, Haiti, Honduras, Indonesia, Iran, Iraq, Japan, Laos, Lebanon, Liberia, Grand Duchy of Luxembourg, Mexico, Netherlands, New Zealand, Nicaragua, Norway, Pakistan, Panama, Peru, Republic of the Philippines, Poland, Saudi Arabia, Soviet Union, Syria, Turkey, Union of South Africa, United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, United States of America, Uruguay, Venezuela, Viet Nam.

3 - THÁI ĐỘ CỦA CÁC NƯỚC CỘNG SẢN

Trong 51 nước trên đây, có ba nước lúc đó theo chế độ cộng sản là Czechoslovakia (Tiệp Khắc, chưa chia hai), Poland (Ba Lan) và Soviet Union (Liên Bang Xô Viết hay Liên Xô). Cả Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) đều không được mời tham dự, vì hội nghị không biết mời ai là đại diện cho Trung Hoa tại hội nghị.

Trong dự thảo hiệp ước, Nhật Bản quyết định từ bỏ quyền hành ở các hải đảo dọc bờ biển Trung Hoa và Việt Nam, nhưng không ghi là giao lại cho ai, vì hải đảo của nước nào thì nước đó đương nhiên nhận lại. Dự thảo nầy được gởi đến các nước để tham khảo và tu chính trước ngày diễn ra hội nghị.

Trung Cộng không được mời tham dự hội nghị nên ngoại trưởng Trung Cộng lúc bấy giờ là Chu Ân Lai lên tiếng phủ đầu ngày 15-8-1951: “Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa một lần nữa tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị, soạn thảo và ký một hòa ước với Nhật Bản thì dù nội dung và kết quả của một hiệp ước như vậy có như thế nào, chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp và vì vậy vô hiệu.” (People’s China, tập IV, số 5 ngày 1-9-1951, do Quốc Tuấn trích dẫn trong bài “Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa liên quan tới vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, tập san Sử Địa số 29, Sài Gòn: tháng 1-3/1975, tr. 221.)

Lập trường của Trung Cộng là đòi hỏi chủ quyền của Trung Cộng trên các quần đảo duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Trung Cộng không tham dự hội nghị, nhưng đòi hỏi của Trung Cộng được đại diện Liên Xô trình bày trong phiên họp ngày 5-9-1951. Andrei Gromyko, đại diện Liên Xô, phản đối bản dự thảo hòa ước vì cho rằng đây là bản dự thảo do Hoa Kỳ và Anh soạn thảo, chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết cho một nền hòa bình với Nhật Bản. Lời phản đối của Gromyko bị các thành viên khác trong hội nghị la ó. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.)

Lý do đại diện Liên Xô bị hội nghị la ó có thể vì bản dự thảo đã được gởi trước để các nước tham khảo, nhưng Liên Xô không trả lời, mà mãi đến khi hội nghị bắt đầu, mới lên tiếng làm mất thời giờ hội nghị và đại diện các nước không chuẩn bị trước với chính phủ của họ. Cũng có thể các nước Đồng minh biết rằng trong chiến tranh chống Nhật Bản, Liên Xô chờ đợi đến phút chót, Nhật Bản bị sụp đổ, Liên Xô mới tham chiến để chia phần nên các đại biểu không cảm phục.

Sau khi chủ tịch hội nghị can thiệp, kêu gọi tái lập trật tự hội trường, thì Gromyko mới tiếp tục phát biểu, đưa ra trước sau 13 điểm tu chính (sửa đổi 5 điểm cũ và đưa thêm 8 điểm mới), trong đó có một tu chính là sửa đổi khoản (b) và khoản (f), điều 2 chương II, liên quan đến các hải đảo dọc duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Andrei Gromyko cho rằng các đảo Paracels (Hoàng Sa) và các đảo khác về phía Nam, được xem là lãnh thổ của Trung Cộng, và yêu cầu bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó thuộc chủ quyền của Trung Cộng. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.) Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra bằng chứng cụ thể nào về chủ quyền của Trung Cộng đối với các đảo trên.

Trong cuộc biểu quyết ngày 7-9-1951, tất cả những tu chính của Liên Xô do Gromyko đưa ra, trong đó có cả tu chính khoản (b) và khoản (f) điều 2 chương II, tất cả đều bị hội nghị bác bỏ. Kết quả biểu quyết cụ thể là 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận của ba nước cộng sản (Tiệp Khắc, Ba Lan và Liên Xô), 1 phiếu trắng và Nhật Bản không bỏ phiếu. Tỷ lệ bác bỏ là 46/51.

4 - Ý KIẾN CỦA VIỆT NAM

Đại diện Việt Nam tại hội nghị San Francisco là thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu. Chính phủ QGVN do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Theo hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 Pháp giải kết hòa ước bảo hộ 1884 và trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Chính thể QGVN chính thức được thành lập ngày 14-6-1949. Đạo dụ ngày 1-7-1949 chia Việt Nam làm ba phần: Bắc, Trung và Nam Phần. Hai ngày sau, quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ba vị thủ hiến phụ trách ba phần, trong đó thủ hiến Trung Phần là dược sĩ Phan Văn Giáo.

Ngày 14-10-1950, khi Pháp quyết định giao lại quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ QGVN, thủ hiến Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ, đến tận quần đảo Hoàng Sa để nhận bàn giao chủ quyền quần đảo nầy. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)


Nguyên dưới thời vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945), Pháp thiết lập tòa Đại lý Hành chánh quần đảo Hoàng Sa ngày 15-6-1932. Vua Bảo Đại ban dụ số 10 ngày 30-3-1938 sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên, nên năm 1950, thủ hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ tiếp nhận việc bàn giao của Pháp.

Ngoài thủ tướng Trần Văn Hữu, phái đoàn chính phủ QGVN còn có các ông: Nguyễn Trung Vinh (tổng trưởng bộ Tài chánh), Nguyễn Duy Thanh (tổng trưởng bộ Kế hoạch và Tái kiến thiết), và Bửu Kính.

Vì sắp theo thứ tự ABC, phái đoàn Việt Nam đứng áp chót, chỉ trước phái đoàn Nhật Bản là nước trong cuộc. Vì vậy phái đoàn Việt Nam được mời phát biểu gần như sau cùng ngày 8-9-1951. Vào cuối phần phát biểu của mình, thủ tướng Trần Văn Hữu nhấn mạnh: “And as we must frankly profit from all opportunities offered to us to stifle the germs of discord, we affirm our right to the Spratly and Paracel Islands, which have always belonged to Vietnam.” Tạm dịch: “Và chúng tôi phải thẳng thắn lợi dụng tất cả các cơ hội dành cho chúng tôi để chận đứng những mầm mống bất đồng, chúng tôi xác định chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vốn luôn luôn thuộc Việt Nam.” (Xin xem tài liệu đính kèm số 2, 3 và số 4.) Lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu không bị đại diện phái đoàn nào trong hội nghị phản đối và được ghi vào biên bản, chứng tỏ hội nghị đồng ý với quan điểm của chính phủ QGVN.

Cuối cùng, hội nghị đi đến việc ký kết bản Treaty of Peace with Japan (Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản) cũng trong ngày 8-9-1951 với 48 phiếu thuận, trừ ba nước cộng sản, đồng minh của Trung Cộng, không chịu ký. Bản hiệp ước có hiệu lực ngày 28-4-1952.
Bản hiệp ước San Francisco gồm 7 chương, 27 điều, trong đó khoản (f), điều 2, chương II, liên hệ đến Việt Nam nguyên văn như sau: “Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracels Islands.” (United Nations Treaty Series 1952 (reg. no. 1832), vol. 136, pp. 45 – 164.) (Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Spratly [Trường Sa] và quần đảo Paracels [Hoàng Sa].) (Xin xem tài liệu đính kèm số 5.) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nghĩa là Nhật Bản trả hai quần đảo nầy trở về với chủ cũ, mà thủ tướng Trần Văn Hữu đã minh định trước hội nghị và không một ai phản đối.

5 - KẾT LUẬN

Hội nghị hòa bình giữa Nhật Bản và 50 nước trên thế giới tại San Francisco, riêng về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, liên hệ đến Việt Nam, có thể rút ra hai kết luận:

Kết luận thứ nhứt là từ năm 1951, các nước trên thế giới, trừ các nước cộng sản đồng minh với Trung Cộng, đều phủ nhận đòi hỏi của Trung Cộng là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng qua phần phát biểu của đại diện Liên Xô tại hội nghị. Đồng thời các nước tham dự hội nghị không phản đối, nghĩa là chấp nhận và cho ghi vào biên bản lời thủ tướng Trần Văn Hữu xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ sơ toàn thể hội nghị cùng lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ấn hành ngay sau hội nghị, gởi cho tất cả các nước, cũng không bị nước nào phản đối, trừ Trung Cộng.

Kết luận thứ hai là lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu chứng tỏ chính phủ Quốc Gia Việt Nam luôn luôn tận dụng mọi cơ hội có thể có được, để tranh đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại âm mưu xâm lược của nước ngoài và trong trường hợp nầy là Trung Cộng. Trong khi đó, Việt Minh cộng sản luôn luôn tuyên truyền rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là “Việt gian bán nước”. Việt Minh cộng sản nhồi sọ học sinh bằng những câu thơ như:

“Văn Xuân, Văn Hữu cũng tay bợm già,
Cũng phường cõng rắn cắn gà,
Rước voi giày mả ông bà tổ tông,
Cha đời lũ bán nước rong!”
(Thơ cộng sản dạy cho trẻ em trước năm 1954)

“Văn Xuân, Văn Hữu” là hai thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Thử so sánh lời phát biểu của Trần Văn Hữu với công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 về vấn đề Hoàng Sa, xin quý vị độc giả hãy tự kết luận ai là “lũ bán nước rong”?

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 4-8-2014)
TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM trích từ:
Conference for the Conclusion and Signature of the Treaty of Peace
With Japan, San Francisco, California – September 4-8-1951, Record of Proceedings
Do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ấn hành. Nhận được qua giáo sư THB (California)

Tài liệu 1: Phát biểu của đại diện Liên Xô


Tài liệu 2: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu


Tài liệu 3: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu (tiếp)


Tài liệu 4: Phần cuối lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu:


Tài liệu 5: Chương II, điều 2, khoản (f) Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản:


Các tác phẩm do giáo sư Trần Gia Phụng biên khảo và xuất bản:
Việt Sử Đại Cương Tập 5 (1945-1954), 2009
Việt Sử Đại Cương Tập 4 (1884-1945), 2008
Trung Kỳ Dân Biến 1908, 2007, 1996
Việt Sử Đại Cương Tập 3 (1802-1884), 2007
Việt Sử Đại Cương Tập 2 (1428-1802), 2006
Exposing the Myth of Hồ Chí Minh, 2005, 2003
Những Câu Chuyện Việt Sử Tập 4, 2005
Nhà Tây Sơn, 2005
Việt Sử Đại Cương Tập 1 (Lập Quốc-1428), 2004
Quảng Nam trong Lịch Sử Tập 2, 2003
Những Câu Chuyện Việt Sử Tập 3, 2002
Ải Nam Quan, 2002
Án Tích Cộng Sản Việt Nam, 2001
(Giải nhất Giải Văn học 2002 của Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do)
Quảng Nam trong Lịch Sử, 2000
Những Kỳ Án trong Việt Sử, 2000
Những Câu Chuyện Việt Sử Tập 2, 1999
Những Cuộc Đảo Chánh Cung Đình Việt Nam, 1998

Những Câu Chuyện Việt Sử, 1997

6 tháng 8, 2014

857. Trương Nhân Tuấn: Điểm yếu của Việt Nam trong vấn đề kiện Trung Quốc

Nếu tranh chấp giữa VN và Trung Quốc về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa được đưa ra phân xử trước một Tòa án quốc tế, nếu phía VN sử dụng những “công trình nghiên cứu” của các học giả VN (thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông) hiện nay, theo tôi, VN không có hy vọng bao nhiêu để thắng. Các học giả VN chỉ chú trọng đến “bằng chứng lịch sử” và bỏ qua các yếu tố quan trọng quyết định khác.

Các học giả VN thường dẫn trong “công trình” của họ các “bằng chứng lịch sử” nhằm chứng minh VN có chủ quyền không thể chối cãi ở HS. Các bằng chứng này hầu hết dẫn từ tác phẩm của các học giả VNCH, viết sau khi TQ dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa năm 1974. Việc làm của học giả tiền bối đó, tương tự công việc mà các học giả Phi hiện nay đang làm, mục đích để phản biện lý lẽ của TQ, khi nước này cho rằng TQ có “quyền lịch sử bất khả tranh nghị” tại các đảo TS.

Các học giả Phi (cũng như các học giả VNCH ngày trước) đưa ra những bằng chứng như bản đồ, các sử liệu… chứng minh lãnh thổ TQ, cho đến đầu thế kỷ 20, chưa bao giờ xa hơn Hải Nam. Chứng minh rằng tên “biển Hoa Nam” chỉ là tên gọi của các nhà hàng hải Châu Âu đặt ra, không có nghĩa là biển này thuộc về TQ. Chứng minh tên biển Hoa Nam đã từng được người Hoa gọi là biển Giao Chỉ (người viết đã từng đề cập việc này ở đây) và sử sách người Hoa cũng gọi là Nam Hải (biển phía Nam…). Các học giả TQ vô cùng lúng túng để phản biện lại.

Trường hợp VN bây giờ (với giàn khoan 981) thì khác. Từ năm 1974 đến nay (nếu tính nhóm An Vĩnh thì từ năm 1949), TQ đã chiếm HS. Các tài liệu lịch sử chỉ hữu dụng (cho VNCH) trong thời điểm đó, tức sau tháng giêng năm 1974, khi VNCH chuẩn bị hồ sơ kiện TQ trước Tòa quốc tế. VNCH không làm được, một mặt vì VNCH không có tư cách pháp nhân “quốc gia”. Không có tư cách pháp nhân quốc gia thì không phải là “đối tượng” của luật quốc tế. Mặt khác, các bên VNDCCH và MTGPMN không ký tên vào bản kháng nghị chung. Nếu kiến nghị này được ký bởi ba bên, VNCH sẽ có tư cách pháp nhân, là bên đại diện cho nước VN thống nhất, có thể kiện TQ ra Tòa quốc tế. Thời đó, phía TQ cũng sử dụng một lý lẽ như đã sử dụng hôm nay đối với Phi: TQ có chủ quyền bất khả tranh nghị tại các đảo Hoàng Sa.

Đã 40 năm qua, các tài liệu “lịch sử” đó đã không còn giá trị nhiều đối với VN, như là đối với Phi. TQ và Phi, chiếm được một số đảo của VN, từ sau Thế chiến II, cả hai đều có hồ sơ chủ quyền “yếu”.
Nếu ta đọc các án lệ của các Tòa quốc tế phân xử các vụ tranh chấp về lãnh thổ, ta thấy yếu tố “bằng chứng lịch sử” có giá trị rất tương đối, đứng sau rất xa các lý thuyết “uti possidetis”, “effectivité”, “estoppel”, “acquiescement”…

Một số thí dụ sau đây, dẫn từ các án lệ, cho thấy hiệu quả của các “bằng chứng lịch sử” ảnh hưởng thế nào lên các quyết định của quan Tòa.

Giá trị pháp lý các bản đồ:

Các học giả VN thường dẫn các bản đồ cổ của TQ, kết luận rằng TQ không có chủ quyền ở HS và TS.

Giả sử phía TQ đưa ra các bản đồ sau đây: 1/ Bản đồ thế giới do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960. Trên bản đồ này, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) được đánh dấu là lãnh thổ Trung Quốc. 2/ Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng Pháp.

Nếu TQ trưng hai tấm bản đồ này ra, phản ứng mọi người sẽ ra sao? Không lẽ bó tay chấp nhận HS và TS thuộc TQ?

Nếu ta đi ngược thời gian xa hơn, các bản đồ nước Trung Hoa cũng không hề chú dẫn hai quần đảo HS và TS, nhưng trong vài bản đồ lãnh thổ nước này bao gồm nước VN.

Khi TQ trưng bản đồ này, không lẽ phải công nhận VN thuộc TQ?

Theo thông lệ công pháp quốc tế, trong các vụ xử tranh chấp chủ quyền, “bản đồ” tự nó thường không được nhìn nhận như là một “bằng chứng” mà chỉ được xem như là một “tài liệu – information”, để bổ túc thêm cho một “lý lẽ – argument” nào đó, hay để khẳng định một “thái độ” nào đó của một bên tranh chấp.

Nhiều án lệ về tranh chấp lãnh thổ cho thấy, đa số trường hợp các bản đồ được các bên trưng dẫn không được Tòa sử dụng như là “bằng chứng”. Các bản đồ này không hề có tác động nào đến quyết định của các quan tòa.

Theo tập quán quốc tế, một tấm bản đồ chỉ có giá trị pháp lý chỉ khi nó được đính kèm với các văn bản của một hiệp đinh phân định biên giới, dĩ nhiên hiệp ước này phải còn hiệu lực. Các thí dụ dẫn dưới đây (tranh chấp Ấn Độ – Pakistan) cho ta thấy như vậy.

Lý thuyết về “hành sử quyền chủ quyền – effectivité”

Thuyết này được áp dụng nhiều ở các Tòa quốc tế xử các tranh chấp về lãnh thổ sau Thế chiến II. Theo đó, một vùng đất thuộc quốc gia A, do một lý do bất kỳ nào đó, lại được quốc gia B kiểm soát và hành sử các quyền thuộc chủ quyền (tài phán, tức quyền được xét xử – juridiction, quan thuế, cảnh sát…) một cách hòa bình trong một thời gian dài, quốc gia A sẽ mất vùng lãnh thổ đó cho quốc gia B.

Có rất nhiều án lệ về tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước đã được Tòa tuyên án dựa trên lý thuyết về “hành sử quyền chủ quyền”. Ở đây người viết lấy hai thí dụ: 1/ tranh chấp Ấn Độ và Pakistan về vùng đầm lầy có tên là “Rann off Kutch” và 2/ Tranh chấp giữa Malaisie và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge.

1/ Trường hợp tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan về vùng đầm lầy Kutch (Rann Of Kutch). Tranh chấp được hai bên đưa ra Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) giải quyết ngày 19-2-1968. Hồ sơ hai bên đệ lên Tòa lên tới trên 10.000 trang tài liệu cùng hàng trăm tấm bản đồ.

Về giá trị các bản đồ, Tòa cho rằng các bản đồ tự nó không có một trọng lượng đặc biệt. Chúng có thể có một giá trị chỉ khi được dựa vào các yếu tố ngoại tại, như được sự phê chuẩn hay được sự chuẩn duyệt chính thức của các viên chức ở cấp cao, đồng ý cho bản đồ có một giá trị cao hơn.

Hàng trăm tấm bản đồ do hai bên đệ trình, không có tấm bản đồ nào có một giá trị đặc biệt trước Tòa.

Các hồ sơ mang tính thuyết phục nhất, do phía Ấn Độ cung cấp, cho thấy nhà nước tiền nhiệm của Ấn là đế quốc Anh, đã có những hành vi hành sử “quyền chủ quyền – droit de souveraineté” trên vùng tranh chấp như thuế má, an ninh, cảnh sát… (effectivité).

Phía Pakistan cũng đưa ra những bằng chứng “effectivité”, cho thấy chính quyền địa phương cũng đã hành sử “quyền chủ quyền” tại vùng tranh chấp này. Các dữ kiện này bị Tòa bác. Tòa cho rằng “quyền chủ quyền” chỉ có thể do chính quyền trung ương hành sử, không thể do chính quyền địa phương.

Tòa phán khoảng 90% vùng tranh chấp giao cho Ấn Độ.

Phía Pakistan được khoảng 10% vùng tranh chấp. Trong vùng này Pakistan chứng minh được các hành vi hành sử quyền chủ quyền (effectivité) tại một số vùng đất. Nhưng thực ra, khu vực này không thể giao cho Ấn Độ, vì dân chúng ở đây, thuộc Pakistan, đã sinh sống tại đây hàng bao nhiêu thế hệ, không thể giao lại cho Ấn Độ được. (Tức là vấn đề “quyền lịch sử” được ưu tiên hơn “effectivité”, nhưng Tòa không cho đó là “quyền lịch sử” mà dùng thuyết “effectivité” để ra phán quyết).

2/ Trường hợp tranh chấp giữa Malaisie và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge, qua phán quyết ngày 23-5-2008 của CIJ.

Ta thấy phía Mã Lai đã đưa những bằng chứng lịch sử bất khả tranh biện rằng Mã Lai có chủ quyền lịch sử ở các đảo tranh chấp. Tòa nhìn nhận thực tế này, cho rằng danh nghĩa chủ quyền tiên khởi (titre d’original) của các đảo này thuộc vương quốc Johor, là nước tiền nhiệm của Mã Lai. Chủ quyền này được thể hiện liên tục trong lịch sử, cho đến một thời điểm, sau khi các đế quốc Anh và Hòa Lan đặt quyền thống trị tại Mã Lai và Indonésie. Thời điểm đó là khi nước Anh, nhà nước tiền nhiệm của Singapour, đã đặt một ngọn đèn pha tại đảo Pedra Branca mà không gặp sự phản đối của nhà nước Johor. Chính quyền bảo hộ Anh tiếp tục bảo trì và làm chủ ngọn đèn pha này trong một thời gian dài, không hề gặp một phản đối nào đến từ Johor.

Sau khi Singapour được Anh trả độc lập, đồng thời Singapour bị từ khước gia nhập khối Mã Lai, Johor trở thành một tiểu bang trong khối này. Singapour muốn biết rõ ai có chủ quyền trên đảo Pedra Branca nên gởi thư, năm 1953, hỏi bộ ngoại giao Johor số phận của đảo này. Viên bộ trưởng lâm thời bộ ngoại giao Johor đã viết “công hàm” (hay công thư cũng được) cho rằng đảo Pedra Branca không thuộc “sở hữu” của Johor. Singapour tiếp tục bảo trì và sử dụng ngọn đèn pha này cho đến lúc tranh chấp xảy ra. Trước Tòa, “công thư” này đã có hiệu lực quyết định, ảnh hưởng lên phán quyết của Tòa.

Tòa phán rằng Mã Lai, nước kế thừa vương quốc Johor, đã mất chủ quyền lịch sử tại đảo Pedra Branca (nhưng còn giữ được đảo Middle Rocks), vì các yếu tố: Singapour (và nhà nước tiền nhiệm) đã thể hiện các hành vi thuộc quyền chủ quyền (effectivité) ở đảo này một cách hòa bình và liên tục trong một thời gian dài. Mặt khác, Johor đã phủ nhận chủ quyền đảo này qua “công hàm” (hay công thư) 1953.

Mã Lai vì thế không thể đòi lại đảo Pedra Branca, mặc dầu trên danh nghĩa chủ quyền lịch sử thì thuộc nước này. Lý do: nhà nước tiền nhiệm đã “bỏ” nó.

Ta thấy trong hai vụ án này, yếu tố “liên tục quốc gia” và vấn đề “kế thừa” (qua các thời kỳ thuộc địa, hay biến cố chính trị làm lãnh thổ thay đổi, sẽ nói bên dưới) của các bên cũng đã được Tòa xem xét tỉ mỉ. Thái độ của các quốc gia (tiền nhiệm và kế tục) liên quan đến vùng lãnh thổ tranh chấp, thể hiện qua những sự kiện ngoại giao như các kết ước, các tuyên bố đơn phương… trong quá khứ (có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ)… đều có tầm quan trọng về pháp lý, ảnh hưởng đến quyết định của Tòa.

Điều ghi nhận khác, lý thuyết về “hành sử chủ quyền – effectivité” có giá trị cao hơn danh nghĩa chủ quyền lịch sử (titre d’original), nếu danh nghĩa này bị gián đoạn, hay quốc gia có danh nghĩa chủ quyền không kịp thời lên tiếng phản đối.

Đối với hồ sơ HS và TS, những hành vi của Pháp đã thể hiện liên quan HS và TS, như tuyên bố chủ quyền, cắm mốc, cho tàu đi tuần… có giá trị pháp lý cao. Trước một tòa án, VN chắc chắn có được danh nghĩa chủ quyền lịch sử tại HS và TS. Vấn đề là danh nghĩa này có bị mất hay không, là tùy thuộc vào sự liên tục quốc gia, việc kế thừa danh nghĩa chủ quyền lịch sử, việc tiếp nối các hành vi hành sử quyền chủ quyền của nhà nước kế tục đối với nhà nước tiền nhiệm.

Nếu vì một lý do gì đó việc hành vi hành sử chủ quyền không thể hiện được, một sự “gián đoạn” về danh nghĩa chủ quyền lịch sử thành hình, (do việc TQ xâm lăng bằng vũ lực) nếu phía VN không thường xuyên lên tiếng phản đối, hoặc có những động thái nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS, chủ quyền ở đây có thể chuyển sang TQ.

Thuyết “Uti possidetis”

Thuyết này xuất hiện tại Nam Mỹ, khi các nước ở đây dành độc lập. Đại khái là vùng đất đó, trước đó anh có nó thì sau đó anh tiếp tục có nó. Lý thuyết này trở thành một “tập quán quốc tế”, được sử dụng thường xuyên trong các vụ tranh chấp về lãnh thổ tại các nước vừa độc lập. Một thí dụ về thuyết “uti possidetis”:

Ai cũng biết một phần không nhỏ đất miền Nam, kể cả vùng Đà Lạt, Darlac, Tây Nguyên… hay đảo Phú Quốc là thuộc về Cao Miên ngày xưa.

Người Miên có lý khi nói rằng họ có bằng chứng “lịch sử không thể chối cãi”, để chứng minh vùng đất đó là của họ.

Các học giả VN cũng thường nói rằng VN có bằng chứng lịch sử không thể tranh cãi tại HS và TS.

Ta thấy việc sử dụng các “bằng chứng lịch sử không thể chối cãi” một cách bừa bãi là chơi dao hai lưỡi.

VN làm gì có bằng chứng lịch sử “không thể chối cãi” để chứng minh rằng đất mình ở đó? Không lẽ sẽ phải trả lại cho Miên?

Theo thuyết “Uti possodetis”, trước khi độc lập, các vùng đất đó đã được chính quyền bảo hộ Pháp sắp xếp cho vào lãnh thổ Việt Nam. Sau khi độc lập, các vùng đất đó sẽ tiếp tục do VN quản lý.


Thuyết này đặt ra nhằm tránh việc chiến tranh đổ máu giữa các dân tộc thuộc địa vừa được độc lập. Hầu hết các án lệ của các Tòa quốc tế, yếu tố “uti possidetis” có giá trị cao hơn “chủ quyền lịch sử”.