GS. Phạm Quang Tuấn tốt nghiệp tiến sĩ ngành công nghệ hóa tại Đại học
Canterbury University, New Zealand, năm 1976. Hiện ông đang làm việc tại Khoa
Công nghiệp Hóa học thuộc Đại học New South Wales (Úc). Ông đã có hàng trăm
công trình trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành. Ông là thành viên ban biên tập
của hai tạp chí quốc tế International Journal of Refrigeration và Journal of
Food Process Engineering.
Ba phán quyết của Tòa án Quốc tế mà học giả
Phạm Quang Tuấn trưng ra làm bằng chứng dưới đây có thể xem là ba thiết
chứng chỉ rõ tác
dụng phản trắc đắc lực của Công hàm/Công thư Phạm Văn Đồng nếu
Việt Nam đem vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa ra trước Tòa án Quốc tế. Đọc xong
không ai không thảng thốt đến nhói tim. Điều ông Giám đốc Minh triết Việt
Nguyễn Khắc Mai nói cách đây ít lâu bỗng trở thành một ám ảnh ghê gớm: “Công
hàm Phạm Văn Đồng là một tai họa cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ
quyền biển đảo với Trung Quốc”, là “một công thư phản động”, “có tác hại phản
quốc” (Xem ở đây). Thử nghĩ, công thư của một ông Thủ tướng là “phản
động”, “phản quốc” thì bản thân ông Thủ tướng và bộ sậu Chính phủ của ông ta là
gì? Càng ngày càng thấy cái gọi bằng liên minh cộng sản nhân danh chủ nghĩa
vô sản quốc tế trong thế kỷ XX chỉ ẩn giấu phía sau độc nhất mỗi mưu đồ thôn
tính lãnh thổ của nước lớn đối với nước nhỏ.
Alexandre Soljenitsyne đã từng khẳng quyết:
“Quốc tế – L’International – là một sai lầm, vì bản thân chữ “inter” có nghĩa
là giữa và giữa các quốc gia không có một nền văn hóa chung nào cả” (L'international
est une aberration, car “inter” signifie entre et entre les nations il n'y a
aucune culture commune). Ngu dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu
nước vào những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết băng vời sang
Tàu sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng về quấn chân dân tộc.
Nhưng cho đến giờ phút này mà vị nào trong thế
hệ cháu con những con người ngu dại kia còn cuồng tưởng rằng bè lũ Trung Nam
Hải có thể cứu được thân phận “cùng hội cùng thuyền” về ý thức hệ, hay đúng
hơn là quyền lợi ích kỷ cho phe đảng, thì không chỉ lú lẫn thôi đâu, mà chóng
hay chầy nhất định sẽ phải chịu sự phán xét khắc nghiệt nhất của lịch sử. Quả
như lời chí sĩ Phan Châu Trinh: “Gớm thay một lũ hồ tinh / Nương hơi dựa
bóng tập tành đã quen”.
Nguyễn Huệ Chi
|
Gần đây một số
tác giả, trong đó có cả những luật sư, đã phân tích giá trị pháp lý của thư
(hoặc công hàm hay công thư [1]) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo
các nguyên tắc pháp lý quốc tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc luật pháp nào
phải áp dụng là điều rất quan trọng, nhưng điều quan trọng chẳng kém là phải
biết Tòa diễn giải và áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua
phán quyết của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ quyền: đảo Pedra
Branca, Đông Greenland và đền Preah Vihear.
Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên
Đổng lý tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có văn kiện
chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị Ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear không
có văn kiện hay lời nói nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công nhận chủ quyền
của nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan trọng đưa đến việc Tòa xử
mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có thể suy ra vài điều về tác dụng của thư Phạm Văn
Đồng nếu chủ quyền Hoàng sa - Trường sa được đem ra kiện trước tòa. Người nào
không có thì giờ đọc hết có thể đi thẳng đến câu cuối (kết luận 14) bài này.
Lưu ý:
Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị
gọi là “thân Tàu” hay “Việt gian”. Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung
Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp
của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu
tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người kiểm điểm, mà
chính là người gây ra lỗ thủng.
Phần I. Ý định trong thư
Phạm Văn Đồng
Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định
(intention) diễn tả trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vai trò chính yếu
trong sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung
của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem lại thư này nói gì. Nguyên văn thư Phạm Văn
Đồng như sau ([A] và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để tiện việc bàn
luận):
Kính gửi đồng chí Chu Ân
Lai,
Tổng lý Quốc vụ viện
nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại Bắc Kinh.
Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng
thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
[A] Chính phủ nước
Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9
năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải
phận của Trung-quốc.
[B] Chính phủ nước
Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc
trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi
đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9
năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ
cộng hoà
Thư này “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”
ngày 4/9/1958 của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của Bộ
Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):
Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn
lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các đảo
dọc bờ, Ðài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu và tất cả các đảo khác
trên biển cả thuộc Trung Quốc.
(2) Đường cơ sở của lãnh
hải thuộc đất liền Trung Quốc và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối
liền các điểm cơ sở trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ biển [offshore
outlying islands]; Vùng biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là lãnh hải
của Trung Quốc. Vùng biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo
biển Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, kể cả
đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu
Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo thuộc nội hải Trung
Quốc.
(3) Nếu không có sự cho
phép của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè
quân sự không được đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.
(4) Những nguyên tắc
trong đoạn (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận,
quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện
còn bị chiếm đóng bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Penghu đang
chờ được chiếm lại. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp
thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ của
Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.
Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (công
thư hay công hàm), ký tên và đóng dấu bởi Thủ tướng một quốc gia, người đứng
đầu Chính phủ, nhân danh Chính phủ để nói và đầy đủ tư cách để đại diện quốc
gia của mình.
Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ
lập trường, thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B) nói về
hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng lãnh hải 12
hải lý của Trung Quốc.
Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng
hạn [3]) cho rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ “Hoàng sa” và
“Trường sa” nên không thể nói là đã chấp nhận chủ quyền Trung Quốc ở hai quần
đảo trên. Họ cho rằng bản tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý chính, những ý
khác (kể cả hải phận quanh Hoàng sa - Trường sa) chỉ là ý phụ, thư Phạm Văn
Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không tán thành những ý phụ. Những người
sính ngôn ngữ luật gọi đây là “nguyên tắc bốn góc”: chỉ được hiểu từ những gì
được viết ra trong văn bản, không được suy diễn thêm.
Có người còn viện dẫn nguyên tắc “phải giải
thích văn bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả” trong luật quốc tế. Tuy
nhiên, dù giải thích “trong bốn góc” và “ít hại nhất” thì cũng vẫn phải hợp lý
và tuân theo những nguyên tắc logic phổ quát và các định luật ngôn ngữ căn bản.
Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu câu “[chúng tôi] không đòi
hỏi sở hữu [đảo này]” là “[chúng tôi] không đòi hỏi chủ quyền [đảo này]”, dù
theo luật pháp thì không có sở hữu chưa chắc là không có chủ quyền.
Thử áp dụng nguyên tắc “trong bốn góc”, ta đọc
thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”.
Lưu ý chữ “bản”, nói về cả văn bản, chứ không phải chỉ nói về một trong những
tuyên bố trong văn bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành toàn bộ nội
dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần và không tán thành phần
khác thì không thể nói là tán thành bản tuyên bố được. Bản tuyên bố nói trong
đoạn 4 rằng lãnh hải Trung Quốc bọc quanh Hoàng Sa và Trường Sa, tức là ông
Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó, không cần phải nhắc lại trong thư của mình.
Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: “Ông/bà có
hứa sẽ nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự thật?” (Do you
swear to say the truth, the whole truth and nothing but the truth?), nhân chứng
chỉ cần trả lời “I do” là đủ hiểu họ hứa tất cả những điều được hỏi, chứ không
thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2 hay 3, v.v., và chắc chắn
là không thể cãi rằng “tôi chỉ nói ‘I do’ chứ tôi đâu có hứa gì đâu?”. Hoặc
trong thủ tục kết hôn, khi được hỏi “Anh/chị có hứa/thề sẽ...” (theo sau là
nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ cần trả lời “Có” (I do) chứ không cần phải
nhắc lại tất cả các lời hứa người hành lễ vừa đọc.
Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng
làm hẹp lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới viết cụ thể
là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói về một điều tức là loại ra hay bác
bỏ những điều không nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không có đoạn “tán
thành bản tuyên bố” trong câu A, vì không thể vừa tán thành một bản văn vừa
không tán thành nhiều điều trong bản văn đó. Hơn nữa, câu B không phải là làm
rõ nghĩa câu A như nhiều người lý luận, mà nói về một hành động cụ thể (chỉ thị
các cơ quan...) phát sinh từ sự tán thành trong câu A.
Có người cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa vì
những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam cộng hòa. Lý luận như vậy là
lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa nói rõ
rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức là Việt Nam
dân chủ cộng hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam,
và mọi hải đảo.
Có người [4] viết rằng, dựa theo “nguyên tắc
thực lòng” (principle of good faith) trong luật quốc tế, vì Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa là những người rất yêu nước, đã từng hy sinh xương máu để bảo
vệ chủ quyền đất nước nên họ không thể thực lòng muốn nhường lãnh thổ cho nước
khác, do đó Tòa án Quốc tế sẽ không nhìn nhận ý định đó trong thư Phạm Văn
Đồng. Diễn giải “thực lòng” theo kiểu này thì thật kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước
sẽ có quyền tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước lừa bịp các nước khác, rồi tuyên bố
rằng tôi không “thực lòng” (in good faith) khi viết hay ký những văn kiện đó và
do đó chúng không ràng buộc tôi được! Diễn giải kiểu đó thì “nguyên tắc thực
lòng” sẽ phải gọi là “nguyên tắc dối trá” (principle of bad faith)!
Thực ra, sự “thực lòng” trong giao dịch quốc tế
phải hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái mình đang
viết hay đang kýnhư thế nào, và sẽ thực lòng thi hành những gì đã hứa, chứ
không có nghĩa là khi mình nói dối, nói mà “không thực lòng”, thì không sợ sẽ
bị ràng buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp ước, văn kiện
trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác biệt văn hóa chẳng hạn, và để đảm bảo là
mỗi nước thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].
Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành
việc cho bề rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể bỏ đoạn
A đi, chỉ viết rằng: “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết
định về hải phận 12 hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý ấy”. Như vậy chẳng đủ biểu
lộ sự đoàn kết với nước anh em hay sao? (“Tôn trọng” chưa chắc đã là “tán
thành”, tôn trọng nói về hành xử, tán thành nói về thái độ, tâm ý).
Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm
Văn Đồng, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tán thành hay chấp nhận Trung
Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường sa. Ít nhất, thư này không phản ứng gì
về câu “áp dụng cho... quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường
Sa]” trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này rất quan
trọng.
Phần II. Vụ án Pedra
Branca
Tóm tắt vụ án
Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là
những đảo nhỏ nằm trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19
trở về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là một bang của
Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc địa Anh xây và sau đó liên
tục cai quản một hải đăng trên Pedra Branca. Năm 1979 Malaysia (quốc gia kế
thừa Johor) công bố một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm trong lãnh hải của mình.
Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc địa Anh) phản đối. Hai nước đưa
ra Tòa án Quốc tế phân xử năm 2003. Tòa xử là Pedra Branca thuộc về Singapore,
Middle Rocks thuộc về Malaysia, còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên
theo luật biển chủ quyền sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của nước nào (lãnh hải
khu này chưa phân định xong) [6, 7].
Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra
năm 1953. Năm đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm rõ
tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State
Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư Johor được tòa coi là có ý nghĩa
rất quan trọng trong vụ án này, và có nhiều điểm tương đồng với thư Phạm Văn
Đồng, nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn lá thư như sau (đoạn 196
trong [6]):
“I have the honour to
refer to your letter . . . dated 12th June 1953, addressed to the British
Adviser, Johore, on the question of the status of Pedra Branca Rock some 40
miles from Singapore and to inform you that the Johore Government does not
claim ownership of Pedra Branca.”
dịch:
Tôi xin trân trọng đề
cập đến thư của ngài ngày 12 tháng 6 năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về
tình trạng của Pedra Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng
Chính phủ Johore không đòi quyền sở hữu Pedra Branca.”
Những tiêu chuẩn pháp lý
được Tòa áp dụng
Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp
dụng như sau (“đoạn xxx” chỉ những đoạn có số thứ tự trong phán quyết của Tòa
[6]):
· Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền
thì cần có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào cách hành xử
hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).
(122. Critical for the
Court’s assessment of the conduct of the Parties is the central importance in
international law and relations of State sovereignty over territory and of the
stability and certainty of that sovereignty. Because of that, any passing of
sovereignty over territory on the basis of the conduct of the Parties, as set
out above, must be manifested clearly and without any doubt by that conduct and
the relevant facts. That is especially so if what may be involved, in the case
of one of the Parties, is in effect the abandonment of sovereignty over part of
its territory.)
· Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình
thức (chẳng hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí không cần hai
bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định (intention) của hai bên. Sự thay
đổi chủ quyền có thể suy diễn từ cách hành xử của hai bên.
(120. Any passing of
sovereignty might be by way of agreement between the two States in question.
Such an agreement might take the form of a treaty,[...] The agreement might
instead be tacit and arise from the conduct of the Parties. International law
does not, in this matter, impose any particular form. Rather it places its
emphasis on the parties’ intentions (cf. e.g. Temple of Preah Vihear (Cambodia
v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J. Reports 1961, pp. 17, 31).)
· Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết,
chẳng hạn khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của mình, thì chủ
quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia. Hành xử này gọi là sự đồng ý hay
chấp nhận ngầm (acquiescence).
(121. Under certain
circumstances, sovereignty over territory might pass as a result of the failure
of the State which has sovereignty to respond to conduct à titre de souverain
of the other State or, as Judge Huber put it in the Island of Palmas case, to
concrete manifestations of the display of territorial sovereignty by the other
State (Island of Palmas Case (Netherlands/United States of America), Award of 4
April 1928, RIAA, Vol. II, (1949) p. 839). Such manifestations of the display
of sovereignty may call for a response if they are not to be opposable to the
State in question. The absence of reaction may well amount to acquiescence. The
concept of acquiescence “is equivalent to tacit recognition manifested by
unilateral conduct which the other party may interpret as consent . . .”
(Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United
States of America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is
to say, silence may also speak, but only if the conduct of the other State
calls for a response.)
Tóm tắt lý luận và phán
quyết của Tòa
Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình
liên quan đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:
(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét
những bằng chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra Branca và
Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của Malaysia).
(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho
phép Anh xây hải đăng trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này,
và cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.
(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái
nào khẳng định chủ quyền trên các đảo liên hệ.
(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng lý
Thuộc địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca, quyền
Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết lá đáp thư như đã nói,
khẳng định là Johor “không sở hữu” Pedra Branca. Tòa viết trong phần Kết luận
rằng lá thư này “có ý nghĩa lớn” (“has major significance” đoạn 275) và kết
luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood), tức là đã chấp nhận,
rằng họ không còn chủ quyền trên Pedra Branca (đoạn 223).
(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore
đã nhiều lần khẳng định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia không
phản ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ Malaysia cho thấy rằng
Pedra Branca thuộc Singapore.
Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị
trí hai bên đã dần dà “tiến hóa hội tụ” (convergent evolution) về một quan điểm
chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên Middle Rocks được cho
là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có một quá trình “tiến hóa hội tụ” tương
tự.
Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau:
Johor/Malasia đã mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong suốt
nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về họ.
Nhận xét về phán quyết
Pedra Branca
· Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi
ngờ được cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức của bằng
chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan trọng, mà quan trọng là ý định
(intention hay understanding) của hai bên, thông qua cách hành xử.
· Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra
Branca, mặc dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau đó
không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng chủ quyền.
· Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố
nào duy nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai bên dần dần
thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động của Johor/Malaysia từ 1844 tới 1952,
đáp thư Johor 1953, sự thụ động của Malaysia khi Singapore thi hành chủ quyền
trong thời gian 1953-1980.
· Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là “có
ý nghĩa lớn” (has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm đó,
Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.
· Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này
chữ “sở hữu” - ownership – phải hiểu là “chủ quyền” – sovereignty, mặc dù
Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái niệm đó (đoạn 198): ta thấy là
nguyên tắc diễn giải “ít hại nhất” hay “trong bốn góc” không thể đánh bại một
cách hiểu hợp lý.
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor
là một văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa không chấp
nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả lời một câu hỏi, nên không có tác
dụng quyết định về mặt pháp lý (conclusive legal effect) [8].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor
gây ra estoppel (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó
không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó đã không khiến cho
Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor
là một hành động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral
undertaking) (đoạn 226), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì đáp thư Johor
không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ quyền trên Pedra Branca hay đang có
tranh chấp, mà chỉ là để trả lời một câu hỏi [8].
· Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác,
nhưng điều đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.
Phần III. Vụ án Đông
Greenland
Tóm tắt vụ án
Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định
cư từ khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của Đan Mạch. Đan
Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của Đan Mạch được một số nước khác
ngầm công nhận (acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan Mạch đều nằm ở Tây
Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan Mạch không có chủ quyền ở
Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị không có kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem
vụ này ra Tòa Công lý Quốc tế Thường trực (Permanent Court of International
Justice), tiền thân của Tòa án Quốc tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch được chủ quyền
toàn đảo Greenland [10].
Câu trả lời của Ngoại
trưởng Ihlen
Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói
về một sự kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày 14/7/1919
trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại trưởng Đan Mạch và Ngoại trưởng Na Uy, Ngoại
trưởng Đan Mạch nói rằng Đan Mạch sắp yêu cầu các nước công nhận chủ quyền Đan
Mạch trên toàn thể Greenland, và hy vọng việc này sẽ không gặp khó khăn từ phía
Na Uy. Ngoại trưởng Na Uy, ông Ihlen, nói rằng sẽ xem xét vấn đề, và ngày 22/7,
trong một cuộc gặp mặt khác, Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ (“ne
fera pas de difficultés”) về vấn đề này. Câu nói này được chính Ngoại
trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch từ tiếng Pháp như sau:
“The Danish Government
has for some years past been anxious to obtain the recognition of all the interested
Powers of Denmark's sovereignty over the whole of Greenland, and it proposes to
place this question before the above-mentioned Committee at the same time.
During the negotiations with the U.S.A. over the cession of the Danish West
Indies, the Danish Government raised this question in so far as concerns
recognition by the Government of the U.S.A., and it succeeded in inducing the
latter to agree that, concurrently with the conclusion of a convention
regarding the cession of the said islands, it would make a declaration to the
effect that the Government of the U.S.A. would not object to the Danish
Government extending their political and economic interests to the whole of
Greenland.
The Danish Government is
confident (he added) that the Norwegian Government will not make any
difficulties in the settlement of this question.
I replied that the
question would be examined.
14/7 - 19 Ih.”
“II. To-day I informed
the Danish Minister that the Norwegian Government would not make any
difficulties in the settlement of this question.
22/7 - 19 Ih.”
Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau
(các đoạn đánh số là từ phán quyết của Tòa [10] ):
· Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen
công nhận Đan Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu rằng ở
thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ quyền Đông Greenland nhưng đang
dự định mở rộng chủ quyền sang đó) (đoạn 188).
· Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa có
tính cách ràng buộc Na Uy, bởi nó xuất phát từ một Ngoại trưởng, đứng trên cương
vị đại diện nước mình để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một vấn
đề thuộc thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là kết luận này không thể nào
chối cãi được (beyond dispute) (đoạn 192).
· Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và
có tính cách quyết định (definitive) (đoạn 195).
· Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh
giành (contest) chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không được
chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).
Nhận xét về phán quyết
của Tòa
· Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có
thẩm quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó về vấn đề chủ
quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc “Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào
hình thức” mà ta đã thấy ở Phần II.
· Điều này cũng cho thấy là quan niệm “mọi sự
thay đổi chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt” là sai lầm. Quan niệm này đôi
khi thấy trong các bài báo Việt Nam.
· Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong
cộng đồng và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là công hàm hay
công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi nữa thì nó cũng đã được ký tên và
đóng dấu bởi một Thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện Chính phủ, và
tuyên bố lập trường của Chính phủ.
Phần IV. Vụ án đền Preah
Vihear
Tóm tắt vụ án
Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên
giới Thái Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là đường phân
thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn về phía nam (vùng thấp) là
Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng cao) là Thái Lan.
Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa
Cambodia) ký một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường phân thủy làm
biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập một ủy ban liên hợp để xác định
biên giới. Áp dụng nguyên tắc đường phân thủy thì Preah Vihear thuộc Thái Lan.
Tuy nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban liên hợp biên giới một địa đồ
theo đó thì đường biên giới vẽ chệch về phía bắc đường phân thủy, khiến Preah
Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra phân
xử tại Tòa án Quốc tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền Preah Vihear thuộc về
Cambodia [11].
Lý lẽ của Thái Lan
Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ
chủ quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:
1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc
dùng đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc Thái Lan.
Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan không dự phần, và đã vẽ sai vì
không theo đúng đường phân thủy. Không có văn kiện chính thức nào nói rằng bản
đồ này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.
2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền
Preah Vihear bằng cách chiếm đóng, quản lý.
Phán quyết của Tòa
Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 “không có tính
cách ràng buộc” ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân thủy
trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu cả hai bên thỏa thuận
không áp dụng nó trong trường hợp nào đó (“it was certainly within the power
of the Governments to adopt such departures”) ([11], trang 20). Vấn đề là
có sự thỏa thuận này không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban
liên hợp 1904.
Tòa nhận xét rằng:
· Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên
ủy ban liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ quán Thái Lan
và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có lời phản đối nào từ Thái Lan. Tòa
cho rằng do đó Thái Lan đã đồng ý ngầm (acquiesce).
· Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của
họ thấy bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước này phải chịu
hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường biên giới và đường phân thủy quá rõ
rệt nên không thể viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).
· Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và
nhận thấy sự sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.
· Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy
Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia.
· Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở
Washington để hòa giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra vấn
đề Preah Vihear.
· Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ
Damrong năm 1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng. Năm
1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách “chủ nhà” mời Hoàng thân Damrong,
Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan, tới thăm Preah Vihear và trương cờ Pháp tại đó. Ông
này tới thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền của Thái Lan. Tòa viết như
sau: “Khó có thể tưởng tượng một sự khẳng định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ
phía Pháp. Việc đó đòi hỏi một phản ứng. Thái Lan đã không làm gì”, và việc đó
cho thấy có vẻ Thái Lan đã “ngầm công nhận” (tacit recognition) chủ quyền của
Cambodia trên Preah Vihear.
(When the Prince arrived at Preah Vihear, he
was officially received there by the French Resident for the adjoining
Cambodian province, on behalf of the Resident Superior, with the French flag
flying. The Prince could not possibly have failed to see the implications of a
reception of this character. A clearer affirmation of title on the French
Indo-Chinese side can scarcely be imagined. It demanded a reaction. Thailand
did nothing. Furthermore, when Prince Damrong on his return to Bangkok sent the
French Resident some photographs of the occasion, he used language which seems
to admit that France, through her Resident, had acted as the host country. The
explanations regarding Prince Damrong's visit given on behalf of Thailand have
not been found convincing by the Court. Looking at the incident as a whole, it
appears to have amounted to a tacit recognition by Siam of the sovereignty of
Cambodia (under French Protectorate) over Preah Vihear, through a failure to
react in any way, on an occasion that called for a reaction in order to affirm
or preserve title in the face of an obvious rival claim.)
· Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý
Preah Vihear, Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền địa
phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối hành xử im lặng của chính
quyền trung ương.
· Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu
rút lính gác Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.
· Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư
tương tự, nhưng Thái Lan không trả lời.
Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3
rằng chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.
Nhận xét về phán quyết
Preah Vihear
· Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký
hiệp ước biên giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy, và theo
điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái Lan.
· Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên
bố đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.
· Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng
ý ngầm), Tòa đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần không phản
ứng trước những hành động hay tài liệu có thể hiểu là khẳng định chủ quyền của
Pháp hay Cambodia.
· Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý
của Thái Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý của nước này
khi cần phải có phản ứng.
KẾT LUẬN
1. Về
vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các
văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.
2. “Ý
định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm
của kẻ muốn giấu giếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải
thích.
3. Những
nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất
cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải
lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).
4. Chỉ
một lời nói (có biên bản) của một đại diện có thẩm quyền (như ngoại trưởng)
cũng có thể ràng buộc một quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).
6. Thư
Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa
- Trường Sa, nên có thể bị coi là acquiescence.
7. Hơn
thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán thành rằng Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc về Trung Quốc.
8. Thư
Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay văn kiện chính thức nhường chủ
quyền Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp
ước quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa đến những kết luận
chính xác.
9. Thư
Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel khiến Việt Nam không có quyền
tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa.
10. Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố
khiến Trung Quốc giúp Việt Nam dân chủ cộng hòa trong chiến tranh Việt Mỹ, gây
tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc trong cuộc chiến đó, thì có
thể estoppel sẽ được áp dụng [9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi
đưa ra lý lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)
11. Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của
thư Phạm Văn Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở chỗ đó.
13. Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không
có ý định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa, kết luận 12 ở trên vẫn
chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận 5).
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU
[1] Ngay sau khi lá thư
của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân
dân gọi nó là “công hàm”. Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây
truyền thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà nghiên cứu và truyền
thông ngoại quốc thường chỉ gọi là “Phạm Văn Đồng letter”, cũng đôi khi gọi là
diplomatic note. Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần đây đã gây nhiều
tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công hàm tức là cố ý giảm thiểu
tầm quan trọng hay chính thức của nó. Bài này sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi
là “thư Phạm Văn Đồng”. Như bài này sẽ cho thấy, dù gọi nó là gì thì giá trị
pháp lý của nó cũng không thay đổi.
[3] Nguyen Le Ha, Giá
trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng
để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
http://boxitvn.blogspot.fr/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html
[4] Cao Huy Thuần, Công
hàm Phạm Văn Đồng - Góp ý về việc giải thích.
http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.
[6] International Court
Of Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu
Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment of 23 May
2008. http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[7] Y. Tanaka (2008)
Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore Territorial Dispute
before the ICJ. http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665
[8] Việc Tòa không chấp
nhận ba thỉnh cầu của Singapore coi đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ
quyền, là ràng buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết chính xác
là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu hỏi như sau: “It is
[now] desired to clarify the status of Pedra Branca. I would therefore be most
grateful to know whether there is any document showing a lease or grant of the
rock or whether it has been ceded by the Government of the State of Johore or
in any other way disposed of.” Câu hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ
quyền Pedra Branca, mà chỉ hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do
đó Tòa đã đi tới những kết luận như trên.
[9] Trong luật quốc tế,
estoppel là sự ngăn cấm một nước (A) không được có những hành động mâu thuẫn
gây hại cho nước (B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì mình đã nói.
Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố của A phải rõ ràng, không
thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên bố phải tự nguyện, vô điều kiện, và bởi người
có thẩm quyền; và cuối cùng, B phải làm gì thiệt cho mình hoặc lợi cho A vì đã
thực lòng tin vào lời tuyên bố của A. (First, the statement creating the
estoppel must be clear and unambiguous; second, the statement must be
voluntary, unconditional, and authorized; and finally, there must be good faith
reliance upon the representation of one party by the other party either to the
detriment of the relying party or to the advantage of the party making the
representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by Estoppel in the
International Court of Justice. California Law Review Volume 74, 1777-1804.)
[10] Permanent Court of
International Justice (1933) Legal Status of Eastern Greenland - Denmark v.
Norway, Judgment.
http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm
[11] International Court
Of Justice (1962) Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v.
Thailand), http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.
[12] Article ler:
La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du Grand
Lac, de l'embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le parallèle de ce
point dans la direction de l'est jusqu'à la rencontre de la riière Prék Kompong
Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se confond avec le méridien de ce
point de rencontre jusqu'à la chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là
elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du
Mékong, d'une part, et du Nam Moun, d'autre part, et rejoint la
chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l'est jusqu'au Mékong. En
amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam,
conformément à l'article ler du traité du 3 octobre 1893. (theo
[10], trang 14)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 10:36
Nhãn: Chủ quyền lãnh
thổ