Theo Góc nhìn
Alan
Đang ngồi ghế Phó Thống
đốc bên cạnh Chủ tịch Ben Bernanke sắp mãn nhiệm, Janet Yellen là kinh tế gia nổi
tiếng, có ông chồng George Akerlof cũng là kinh tế gia, đã đoạt giải Nobel Kinh
tế năm 2001. Bà sẽ là phụ nữ đầu tiên lên lãnh đạo hệ thống ngân hàng trung
ương của nước Mỹ. Chuyện đã hấp dẫn.
Hấp dẫn hơn vậy, giới
nghiên cứu về đầu tư theo dõi rất sát cuộc điều trần, để từ chủ trương đường lối
của bà Yellen mà dự đoán quyết định của Ngân hàng Trung ương Mỹ. Nhưng tại Bắc
Kinh hay Thượng Hải, lãnh đạo kinh tế và ngân hàng của Trung Quốc cũng nên chú
ý tới chuyện này. Vì Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể vô tình làm sụp đổ hệ
thống ngân hàng của Bắc Kinh và gây ra một vụ suy thoái kinh tế, tức là một vụ
khủng hoảng chính trị.
Vô tình chiết liễu… liễu tan hoang.
Chúng ta phải đi từ đầu
câu chuyện kinh tế mang ý nghĩa như một…. câu phú tử vi: “cố ý trồng hoa, hoa
chẳng mọc!…”
Từ vụ khủng hoảng tài
chánh năm 2008 rồi nạn suy trầm kinh tế 2008-2009 và sự hồi phục quá yếu ớt sau
đó, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ đã cắt lãi suất tới sàn. Thực tế là áp dụng
“Chính sách ZIRP” – là lãi suất bằng số không. Tiếp theo là ba đợt bơm tiền qua
một thuật lạ gọi là “quantitative easing” (nâng mức lưu hoạt tiền tệ có định lượng)
vào Tháng 11 năm 2008, rồi Tháng 11 năm 2010 và Tháng Chín năm 2012. Quyết định
lần thứ ba (QE3) có kích thước rất lớn là mỗi tháng bơm ra 85 tỷ đô la.
Nói cho dễ hiểu là làm
cho kinh tế có tiền nhiều và rẻ hơn, với hy vọng giảm bớt và thu hồi lại nếu
kinh tế phục hoạt, thất nghiệp giảm và lạm phát tăng…
Tháng Năm vừa qua, Chủ
tịch Ben Bernanke thông báo là nhờ tình hình kinh tế khả quan hơn, Ngân hành
Trung ương có thể “vuốt lại chính sách tiền tệ” – “tapering” – kể từ Tháng
Chín. Nôm na là giảm bớt lượng tiền bơm ra hàng tháng và còn hút về lượng tiền đang
lưu hành. Kết quả là tiền sẽ hiếm hơn nên lãi suất có thể tăng.
Chúng ta đụng vào một
nghịch lý là tin mừng về kinh tế (chỉ dấu phục hoạt), lại dẫn tới tin buồn về
tài chánh (làm tăng lãi suất ngân hàng và phân lời trái phiếu), khiến trị trường
chứng khoán sụt giá mạnh. Và cả thế giới bị chấn động, vì sau nhiều năm tiền
nhiều và rẻ khiến Mỹ kim sụt giá thì người ta đi vào một chu kỳ mới, là hối suất
Mỹ kim sẽ tăng cùng lãi suất tại Hoa Kỳ. May là tình hình kinh tế Hoa Kỳ chưa
khả quan, biện pháp thu hồi tiền tệ chưa được áp dụng.
Đấy là lúc giới đầu tư
chú ý đến người sẽ lên thay ông Bernanke làm Thống đốc vào năm tới… Mà chuyện ấy
liên quan gì tới Trung Quốc?
Thưa rằng vì trái đất
hình tròn và đồng tiền biết lăn.
Đồng tiền mà nằm bên Mỹ
thì ăn lời rất ít vì lãi suất quá thấp.
Người khôn ngoan bèn
vay tiền rất rẻ bên Mỹ để kiếm lời ở nơi cao giá nhờ có lãi suất cao hơn. Khôn
nhất là các đấng con trời tại Bắc Kinh hay Thượng Hải, Hong Kong, Singapore,
v.v…
Họ vay đô la rẻ tại Mỹ,
chuyển sang đồng Nguyên, có cái tên rất bịp là “Nhân dân tệ”, Renminbi, dưới
nhiều hình thức như đầu tư trực tiếp hay xuất cảng, để cho vay với lãi suất cao
hơn. Phần sai biệt giữa hai lãi suất Hoa-Mỹ là mức lời bỏ túi. Thuật ngữ kinh tế
gọi phép kinh doanh đó là “carry trade”, nếu dịch là “giao dịch lợi sai” hay
“dung tư xáo lợi” thì cũng chẳng rõ nghĩa hơn!
Mà không chỉ có vậy.
Năm 2008, khi Hoa Kỳ cắt
lãi suất thì cũng là lúc Trung Quốc ào ạt bơm tiền để kích thích kinh tế vì
tình trạng co cụm của thị trường xuất cảng cả Âu lẫn Mỹ. Lãnh đạo xứ này bơm
qua hai ngả là tín dụng và công chi. Vì đặc tính xã hội chủ nghĩa của xứ này là
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tín dụng từ hệ thống ngân hàng của
nhà nước ưu tiên rót vào doanh nghiệp cũng của nhà nước, hay các công ty đầu tư
địa phương do các cấp chính quyền địa phương lập ra.
Khối tín dụng tăng vọt
từ những năm 2009 tạo ra phép ảo là kinh tế tăng trưởng mạnh khi toàn cầu đang
bị suy trầm. Cái phép ảo còn kinh hại hơn vậy là nạn bong bóng đầu cơ trên thị
trường gia cư địa ốc. Đất đai vốn thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do nhà
nước thống nhất quản lý. Và nhà nước phân quyền cho các địa phương tha hồ giành
giật chia chác, vì đem lại 40% thu nhập ngân sách địa phương. Do đó, các ngân
hàng của nhà nước, doanh nghiệp của nhà nước, cùng các đảng bộ ở địa phương thi
nhau thổi bóng và tay chân cùng thân nhân của đảng viên cán bộ đều trở thành đại
gia trong nền kinh tế ảo diệu này.
Khi núi nợ đã lên quá
cao, lãnh đạo Bắc Kinh muốn kiểm soát hệ thống ngân hàng thì lại gặp một quy luật
kinh tế khác, là “bít lỗ hà ra lỗ hổng”.
Đó là sự xuất hiện của
các hình thức tín dụng ảo, là nghiệp vụ “shadow banking”, những hình thức đầu
tư và cho vay mờ ám, thiếu sổ sách phân minh mà thừa rủi ro. Núi nợ tín dụng của
Trung Quốc nay đã cao gấp đôi Tổng sản lượng nội địa và phân nửa là loại “ảo ảnh”
sẽ bốc thành khói. Bên trong là những khoản tiền cho vay bằng kỹ thuật “carry
trade”, vay tiền Mỹ với giá rẻ để tài trợ bằng loại tiền âm phủ là đồng Nguyên.
Gọi là tiền âm phủ vì có giá trị của vàng mã.
Đấy là lúc chúng ta trở
về với Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ.
Trong quá khứ, nhiều nước
Đông Á cũng đã khôn ngoan như vậy là vay tiền rẻ của Mỹ theo loại tín dụng ngắn
hạn để tài trợ các nghiệp vụ dài hạn. Khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nâng lãi suất
là nhà nhà đều lật đật rút tiền về Mỹ. Nạn “tư bản tháo chạy” như nước thủy triều
đã gây ra vụ khủng hoảng tài chánh Đông Á vào năm 1997, dẫn tới suy thoái kinh
tế 1998, và khủng hoảng ở nhiều nơi khác, kể cả Liên bang Nga.
Nhưng chính là vụ khủng
hoảng đã khiến các nước Đông Á phải cải cách. Bị trước tiên mà sợ liều thuốc đắng,
Thái Lan trì hoãn cải cách đến hơn chục năm mới thấy khá. Nam Hàn thì nuốt liều
thuốc đắng và tháo gỡ vai trò của các tập đoàn “chaebol” – nguyên nghĩa là “tài
phiệt” – nên sau khi chìm rất sâu thì đã bật lên rất mạnh.
Khi biến cố này bùng nổ
vào đầu Tháng Bảy năm 1997, Bắc Kinh còn đang hồ hởi với vụ Hương Cảng hồi quy
cố quốc trước đó một ngày. Và thời đó, kinh tế Trung Quốc chưa hội nhập vào thế
giới hình tròn của “toàn cầu hóa”, của nền kinh tế “nhất thể hóa”. Ngày nay thì
đã khác xưa.
Luồng tư bản nóng đã như thủy
triều chảy vào Trung Quốc và nhờ định hướng của nhà nước, với màu sắc Trung
Hoa, đã dẫn đến nạn đầu cơ và cho vay ảo. Khi Ngân hàng Hoa Kỳ điều chỉnh chính
sách tiền tệ và nâng lãi suất, ta sẽ thấy thủy triều rút. Để lại đằng sau là những
trái bóng bể, là ngân hàng vỡ nợ, là nạn suy thoái kinh tế. Vì vậy, chúng ta sẽ
chứng kiến một sự lạ.
Đó là Hoa Kỳ bóp cò bên
này, bên kia đại dương là hàng loạt bóng bể và ngân hàng phơi thây.
Hoa Kỳ không là thủ phạm,
nhưng dân Trung Quốc vẫn là nạn nhân, chỉ vì lãnh đạo kiêu căng và tay chân thì
tham lam tưởng bở. Phải chăng, “tham sân si” cũng là một quy luật kinh tế?