Nhãn

22 tháng 2, 2014

838. Điều gì sẽ xảy ra nếu VAMC thất bại?


Việt Nam có thể lâm vào khủng hoảng tài chính vì các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia sẽ hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam, Việt Nam không vay nợ của nước ngoài được.
Theo chuyên gia phân tích cao cấp Hang Jin Yun của CTCP Chứng khoán KIS Việt Nam, tuy các nhà đầu tư (NĐT) ít nhiều kỳ vọng vào việc VAMC xử lý nợ xấu nhưng thực tế VAMC đang “mua thời gian”. Lượng tiền được đẩy ra nền kinh tế chỉ ở mức hạn chế. Chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn chuyên gia nước ngoài này về VAMC.
Thưa ông Hang Jin Yun, ông có thể cho biết một số điểm khác biệt cơ bản giữa cách xử lý nợ xấu của Hàn Quốc và Việt Nam được không?
Điểm khác biệt lớn nhất, công ty xử lý nợ xấu của Hàn Quốc là KAMCO mua lại nợ xấu với giá rất rẻ để có thể xử lý triệt để món nợ xấu đó. Còn VAMC lại mua lại nợ xấu với giá khá là cao, khó có thể bán lại nợ xấu đó cho người khác. Điểm thứ hai, KAMCO cũng mua lại toàn bộ ngân hàng dính nợ xấu và tái cơ cấu lại thành một ngân hàng mới. Còn Việt Nam giữ nguyên Ngân hàng.
Như vậy, tuy Hàn Quốc và Việt Nam đều sử dụng cùng một phương pháp là thành lập công ty mua bán nợ xấu để xử lý nợ nhưng cách thức thực hiện sẽ cho thấy là xử lý như thế nào thì triệt để hơn.
Vậy ông đánh giá khả năng xử lý nợ xấu của Việt Nam đến đâu?
VAMC thành lập cũng chưa được lâu. VAMC cũng mới tiến hành mua nợ xấu từ đầu tháng 10/2013 và nợ xấu đã mua cũng chưa được đem bán đấu giá nên hiện tại khó có thể đánh giá được.
VAMC mới mua lại nợ xấu mà chưa có kế hoạch xử lý cụ thể, thì chỉ giống như là “mua thời gian”, giãn nợ. Tuy nhiên, cũng có 2 lợi ích. Trước hết là các ngân hàng sẽ không bị ảnh hưởng mạnh. Thứ hai là Chính phủ không phải bỏ quá nhiều tiền để thực hiện tái cơ cấu.
Điểm yếu của VAMC là Ngân hàng nào không tự xử lý được các khoản nợ xấu của mình thì sau 5 năm, ngoài khoản nợ xấu phải nhận lại, họ còn gánh thêm những khoản nợ xấu phát sinh mới. Các Ngân hàng lại quay lại thời điểm bắt đầu.
Theo ông, Chính phủ Việt Nam không bỏ nhiều tiền để xử lý nợ xấu thì liệu có hiệu quả không?
Trước hết có thể thấy, VAMC mua nợ xấu không bằng tiền mặt mà bằng trái phiếu đặc biệt. Các ngân hàng lại đem trái phiếu đó để vay vốn tại NHNN với giá rẻ. Như vậy, các ngân hàng vừa xóa được nợ xấu lại vừa có khoản vốn mới để tăng trưởng tín dụng. Điều này có thể tác động tích cực đến nền kinh tế.
Có các trường hợp thế này. Thứ nhất là VAMC không bán được nợ xấu đó và sau 5 năm, số nợ xấu đó trả lại cho ngân hàng. Khi đó lại phân ra làm 2 trường hợp, một là các ngân hàng trong 5 năm đó đã trích lập dự phòng đầy đủ cho các món nợ của mình, hai là các ngân hàng không thể trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ. Như vậy, nợ xấu của Việt Nam đã không được giải quyết.
Trường hợp thứ hai, Chính phủ chấp nhận chịu lỗ, bán nợ với giá rẻ tức là "chịu chi" thì hiệu quả xử lý sẽ cao hơn. Trong cuộc khủng hoảng của Hàn Quốc, số tiền mà chính phủ Hàn Quốc bỏ ra để tái cơ cấu chiếm khoảng 40 – 50% GDP.
Tuy nhiên, Việt Nam khó có thể áp dụng tái cơ cấu triệt để như Hàn Quốc vì cần rất nhiều tiền. Trong nhiều năm Việt Nam liên tục thâm hụt ngân sách. Nếu Chính phủ chịu “chi” như thế thì thâm hụt ngân sách có thể lên tới trên 10%, đem lại những hậu quả khó lường. 
Ngoài ra, nếu mà bán với một mức giá quá thấp thì cũng sẽ vấp phải sự phản đối của người dân trong nước. Người dân gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ nghĩ rằng tài sản của họ tại sao lại bán cho nước ngoài với giá rẻ mạt như thế?
Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, bán nợ xấu với giá thấp, khi đó Tổng thống Hàn Quốc đã vấp phải sự phản đối biểu tình dữ dội của người dân.
Theo ông, nếu phương pháp xử lý nợ xấu bằng VAMC thất bại thì sao?
Nếu VAMC thất bại thì có một số trường hợp. Việt Nam có thể lâm vào khủng hoảng tài chính vì các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia sẽ hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam, Việt Nam không vay nợ của nước ngoài được. Khi đó Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Chính phủ cũng rơi vào tình trạng vỡ nợ. Đương nhiên khi đó nền kinh tế Việt Nam rất nguy hiểm, khó có thể hồi phục.
Trường hợp khác, Việt Nam vẫn có thể đi vay được, thì nguồn vốn đó cũng không thể có giá rẻ. Thậm chí nếu vay được thì có thể ngay trong thời điểm đó không vỡ nợ nhưng về dài hạn vẫn có nguy cơ này do phải vay vốn lãi suất cao.
Là một nhà đầu tư nước ngoài, ông có muốn mua nợ xấu của Việt Nam không?
Nếu VAMC bán nợ với giá hấp dẫn thì tôi sẽ xem xét mua.
Theo ông, giá như thế nào thì hấp dẫn?
Phải xem khoản nợ xấu đó như thế nào. Nếu nợ đó thuộc diện khó mà đòi được thì phải mua với cái giá gọi là “vừa bán vừa cho”. Còn nếu khoản nào đó vẫn có tính minh bạch, “con nợ” và “chủ nợ” vẫn tồn tại thì có thể xem xét mua với giá cao hơn.
Theo ý kiến của tôi, nếu VAMC bán nợ với giá đắt hơn giá mua thì khó mà làm được vì theo mức chiết khấu mà VAMC mua trong thời gian qua, tức bằng 90 – 91% giá trị khoản nợ. Giờ mà bán với giá cao hơn thế thì chắc chắn là NĐT sẽ không mua. Đó là một món nợ xấu, bản thân nó đã chứa đựng những rủi ro rồi. Nếu bán với giá khoảng 30 – 40%, Chính phủ phải chịu lỗ thì mới có người mua được.

Hải Minh

13 tháng 2, 2014

837. Nguyễn Trung: Chữ tín



Đại hội XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam nên bắt đầu từ đi tìm chữ tín, làm tất cả mọi việc có thể để thực hiện chữ tín.

Thiết nghĩ đây là điều quan trọng nhất, thách thức đến mức sống hay là chết, ĐCSVN lúc này nên làm, nhất là quá trình chuẩn bị đại hội XII đã bắt đầu.

Sở dĩ đặt vấn đề như vậy là vì những lý do sau đây:

Một là:

Tuy chưa dám đụng tới bản chất của sự vật, nhưng tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng không dưới một lần đã phải nói trước toàn đảng và toàn dân tệ nạn quan liêu tham nhũng và sự tha hóa về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ đảng viên đã tới mức đe dọa sự tồn vong của chế độ, làm cho lòng tin của nhân dân vào ĐCSVN giảm sút nghiêm trọng. Trong khi đó đất nước ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề phải giải quyết vượt quá tầm năng lực của đảng. Tình trạng mất dân chủ và các thói hư tật xấu khác của tàn tích văn hóa phong kiến tiểu nông hầu như loại bỏ khả năng thay máu đổi mới đảng. Cái gọi là kiên định ý thức hệ xã hội chủ nghĩa một mặt là vũ khí bảo vệ quyền lực của đảng, nhưng đồng thời mặt khác là kẻ thù số một đối với mọi xu thế và nỗ lực trong đảng muốn đổi mới đảng[1]

Nhìn vào đời sống thực, phải nói từ gần một thập kỷ nay đất nước lâm vào một thời kỳ sa sút toàn diện và trầm trọng nhất chưa có lối thoát kể từ khi sự nghiệp độc lập – thống nhất của đất nước được hoàn thành ngày 30-04-1975. Đà phát triển năng động của đất nước bị chặn đứng; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia phải đối phó với những uy hiếp mới. 

Nguyên nhân hàng đầu của thực trạng nói trên là: Sự tha hóa của ĐCSVN trong thời bình đã chọn việc bám giữ vai trò cầm quyền (thực ra là vai trò cai trị) của mình làm mục tiêu tối thượng, sẵn sàng dùng mọi biện pháp tệ hại có thể của quyền lực để thực hiện mục tiêu này. Lợi ích quốc gia và quyền làm chủ của nhân dân phải xếp xuống hàng thứ hai và chỉ được thực hiện khi tình thế bắt buộc và trong chừng mực bảo toàn được quyền lực của đảng.  

Nói cho rốt ráo, quyền lực của ĐCSVN hôm nay thực chất chỉ còn lại là quyền lực của những người, những nhóm nắm thực quyền trong đảng; nghĩa là chính bản thân ĐCSVN với tính cách là một tổ chức cũng bị quyền lực của những người và những nhóm có thực quyền này chi phối. Sự chi phối này thể hiện rõ nhất ở chỗ cương lĩnh, điều lệ và những nguyên tắc làm việc trong đảng thường xuyên bị vi phạm ở mọi cấp, nhất là sự vi phạm từ trên xuống; dân chủ trong đảng thực ra không tồn tại.  

Hệ quả đối với toàn đảng là kỷ cương không nghiêm, tính tiền phong chiến đấu của đảng từng bước bị loại bỏ, trên thực tế đến hôm nay đảng chỉ còn lại là một lực lượng chính trị mạnh áp đảo, đang nắm trọn trong tay vận mệnh đất nước. 

Hệ quả đối với toàn bộ đời sống đất nước là luật pháp bị chà đạp, nhiều giá trị đạo đức – xã hội bị băng hoại nghiêm trọng, có biết bao nhiêu quyết sách đúng thất bại, năng lượng phát triển của đất nước bị tiêu phí, hủy hoại.  

Hệ quả chung cuộc là để bù lại những yếu kém đang ngày càng đe dọa mình, ĐCSVN buộc phải tiếp tục “siết” hơn trong việc cầm quyền và đồng thời phải tiếp tục cho dối trá lộng hành để bảo toàn địa vị nắm quyền của đảng. Tình hình nguy hiểm đến mức độ ĐCSVN bây giờ có định làm việc gì tốt cũng khó thành công, định nói đúng nói thật điều gì dân cũng khó tin, không tin.  

Nhưng cho dù tăng “siết” và dối trá như thế, quyền lực của đảng vẫn cứ tiếp tục suy yếu. Dẫn tới đảng và dân ngày càng xa cách nhau hoặc đối nghịch nhau. Thậm chí ngay trong nội bộ đảng với nhau, chữ tín thường phải nhường bước trước sức mạnh của dối trá và quyền lực… Chính cái vòng luẩn quẩn này đang làm mục ruỗng sức sống của ĐCSVN, khiến cho tha hóa trong đảng ngày càng ngự trị, với hệ quả cực kỳ nguy hiểm: đảng không giữ được chữ tín đối với dân, còn chữ tín trong dân dành cho đảng bị đánh cắp. Thực tế này đang làm sâu sắc thêm tình trạng đảng và dân phải đối phó lẫn nhau, và cứ thế ngày đêm gây thêm tai ương mới cho đất nước. 

Đã đến lúc phải thừa nhận: Vì thiếu vắng chữ tín trong đời sống đất nước, chưa bao giờ ý chí của người dân và của người đảng viên ĐCSVN bị làm nhụt như hiện nay, lòng dân phân tán. Thử hỏi, đất nước như thế này làm sao đi lên được?
         
Hai là:

Đất nước phải bước vào một cuộc chạy đua quyết liệt với nhiều thách thức mới ập đến từ mọi phía. Nhất là trong bối cảnh khu vực của chúng ta đang nóng lên những biến động bất thường – nóng bỏng nhất là cái “đường lưỡi bò”. Thế giới đang diễn ra một cuộc sắp xếp lực lượng mới…

Ngay trước mắt, chuyển đất nước ta đi vào một thời kỳ phát triển mới như thế nào, hiện nay chưa có lời giải, chưa được chuẩn bị về rất nhiều mặt. Trong khi đó giai đoạn phát triển đầu tiên của đất nước đã kết thúc, đặt ra cho đất nước nhiều vấn đề mới và khó, thậm chí cực khó. Lực lượng nắm quyền lãnh đạo đất nước biết, hoặc không biết thấu, không biết đủ, hoặc không có khả năng biết đúng nhiều vấn đề đang đặt ra cho đất nước. Quan trọng hơn thế là lãnh đạo đang giấu dân, hoặc không để dân biết toàn bộ hiện trạng của đất nước, giấu dân cả về những thách thức mới cũng như tình trạng bất cập của đảng và của chế độ chính trị. Thất bại và việc dùng đội ngũ dư luận viên che giấu sự thật chỉ càng tăng thêm hủy hoại lòng tin của nhân dân đối với đảng. Chữ tín của đảng đối với dân đã thiếu vắng lại càng thiếu vắng. 

Có thể lẩy ra một vài điểm để bàn thảo. 

Chỉ tính từ khi đổi mới, gần ba thập kỷ đã qua, nhưng đất nước còn đứng rất xa cái mốc trở thành một nước công nghiệp hóa, mặc dù mục tiêu này đã nhiều lần được các đại hội đảng điều chỉnh thấp đi (vận dụng cách nói co dãn) và kéo dài thời gian. Nghị quyết hiện hành nói năm 2020 cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhưng mục tiêu này có đạt được không? Nhất là chưa ai nói được đó sẽ là một Việt Nam công nghiệp như thế nào trong thị trường của thế giới toàn cầu hóa hôm nay?..  

Tính theo sức mua (PPP), GDP p.c. năm 2013 của ta bằng khoảng 1/3 của Thái Lan (3500 USD/10.000 USD). Giới chuyên môn đánh giá, cứ giữ cung cách làm ăn và chế độ quản lý đất nước như hiện nay, Việt Nam cần vài ba thập kỷ nữa mới đuổi kịp trình độ phát triển của Thái Lan bây giờ (hiện được coi là nước đang phát triển có thu nhập trung bình, nghĩa là chưa phải là một nước công nghiệp). 

Không ít nhà kinh tế trong nước và trên thế giới lo lắng Việt Nam làm sao thoát được cái bẫy thu nhập trung bình thấp, bởi vì khủng hoảng kinh tế trầm trong hiện nay tuy đang có triển vọng có thể thoát đáy, song nếu giỏi cũng phải vài ba năm nữa kinh tế Việt Nam mới phục hồi – bởi vì những u bướu không ít phần ác tính của nợ nần, của những ách tắc mang tính cơ cấu trong kinh tế, của vỡ bong bóng thị trường bất động sản, của thất thoát trong các tập đoàn kinh tế quốc doanh, của rối rắm trong hệ điều hành… nan giải lắm. Sau đó có tìm được đường đi lên hay không – đó sẽ là một câu chuyện khác và còn để ngỏ. Bởi vì đến giờ này vẫn chưa có chiến lược và mục tiêu sản phẩm, chưa có quy hoạch bài binh bố trận, chưa biết lấy đâu ra nguồn lực triển khai kết cấu hạ tầng cho giai đoạn phát triển mới… Lại càng không thể có một nước công nghiệp hóa trong một thể chế chính trị có bản chất không đáp ứng được sự vận động của nó… Nghĩa là, ngay từ bây giờ đã thấy không thể hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa vào năm 2020. Mà để chậm như thế một ngày, uy hiếp mọi mặt đối với đất nước sẽ lớn thêm một ngày. Song cho đến nay đảng tuyệt nhiên chưa có một lời cảnh báo nào về tình hình này để cả nước định liệu.

Thật đáng lo là hiện nay Việt Nam chưa chuẩn bị được bao nhiêu cho thời kỳ phát triển mới. Khái niệm chung chung “cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” không vạch ra được điều gì cụ thể về tư duy chiến lược. Trong khi đó mọi nguồn lực  - kể từ kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực có chất lượng, tiềm năng khoa học kỹ thuật và công nghệ, sự tích lũy của nội địa, chất lượng của thị trường, năng lực quản lý của nhà nước, khả năng thực thi của luật pháp, vân vân… - để đưa Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới đều vô cùng hạn hẹp, thậm chí thiếu nhiều thứ. Cho đến giờ phút này Việt Nam vẫn chưa có một chiến lược dưới dạng một chương trình hành động có tính ràng buộc pháp lý (cam kết bằng luật pháp của quốc hội, của nhà nước, được cụ thể hóa bằng quy hoạch, kế hoạch…) cho mục tiêu, cho con đường, cho lộ trình các bước đi của một thời kỳ phát triển mới. Hiển nhiên trí tuệ, tầm nhìn của ý thức hệ cũng như tư tưởng nhiệm kỳ không cho phép đảng làm việc này.  

Xin lưu ý, cùng một xuất phát điểm gần giống nhau, Hàn Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa trong khoảng 3 thập kỷ (1960 – 1990), với một nguồn lực trong nước và thu hút được từ bên ngoài chỉ bằng ½ khối lượng Việt Nam có được từ đổi mới đến nay (1986 - 2014)! Trong khi đó, đến hôm nay Việt Nam vẫn chưa giải quyết xong vấn đề nông nghiệp của một quốc gia công nghiệp hóa, để vừa có một nền nông nghiệp hiện đại theo đúng đòi hỏi của một nước công nghiệp, vừa có một tỷ trọng là khoảng ¼ hay 1/5 lao động xã hội làm việc trong nông nghiệp (tỷ trọng này của Hàn Quốc 1990 khoảng 12%, hiện nay khoảng 6%). Trớ trêu hơn nữa, hiện nay đang cùng một lúc xảy ra hiện tượng nông dân ta không đủ ruộng làm, nhưng diện tích nông dân trong cả nước bỏ ruộng hoang lên đến nhiều vạn hecta – chỉ vì làm nông nghiệp như hiện nay không sống được (bỏ ruộng vì biến đổi của môi trường tự nhiên không tính). Luật pháp và các chính sách hiện hành hầu như bất lực trước thực trạng này, cũng không thể hỗ trợ quá trình tích tụ ruộng đất để đi lên sản xuất lớn và hiện đại. Nông dân nhiều nơi đành tự lo, tự phá rào, luật pháp chứa chấp thêm những bất thiêng mới, kinh tế xuất hiện những rủi ro mới... 

Cho đến hôm nay và trong vòng một, hai thập kỷ tới, chưa làm sao xác định được công nghiệp Việt Nam sẽ nằm trong chuỗi cung / ứng nào, chiếm lĩnh sản phẩm nào, thị phần nào trong nền kinh tế toàn cầu hóa… Chẳng lẽ vẫn cứ dệt may là chủ lực? Rồi đây sẽ vươn lên đến xuất khẩu hộ thép và sản phẩm lọc dầu được nước ngoài đưa vào sản xuất trên đất nước ta? – nghĩa là tiếp thu một nền công nghiệp bẩn, biến đất nước ta thành đất nước cho thuê đất đai và môi trường, dân ta trở thành người đi làm thuê bằng lao động cơ bắp là chủ yếu!.. Chưa nói đến, hiện nay nếu không giải quyết thành công hàng năm đưa hàng chục vạn người đi lao đng ở nước ngoài thì không thể giải quyết được vấn đề thất nghiệp và vấn đề xóa đói giảm nghèo. Rồi hàng vạn phụ nữ Việt Nam phải đi lấy chồng nước ngoài chỉ vì lý do kinh tế!.. Vân vân và vân vân.

Nước ta có tứ trụ của hệ thống chính trị là tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội. Một điểm nổi bật là tất cả những vị lãnh đạo này khi đăng đàn tại các địa phương, các bộ, ngành.., đều chỉ thị và chỉ đạo công việc rất sát sao: nêu câu hỏi cho kinh tế phải nuôi con gì, trồng cây gì, đặt vấn đề phải phát triển sản phẩm gì, phải phấn đấu xây dựng nông thôn mới ra sao, phải thi đua học tập tấm gương và đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải xây dựng đảng vững mạnh, phải phát huy quyền làm chủ của dân… Không thể không đặt ra nhiều câu hỏi: Nếu chỉ thị và chỉ đạo giống nhau như vậy có phải là nhiệm vụ giống nhau của cả tứ trụ không? Nếu làm một việc giống nhau như thế liệu có cần cả 4 người không? Làm việc như thế, nhiệm vụ được phân công riêng cho từng vị sẽ như thế nào? V… v... Chỉ một ví dụ nhỏ này đủ phản ảnh sự rối rắm, chồng chéo và chồng lấn lên nhau với nhiều hệ lụy rất tệ hại của hệ thống chính trị quốc gia: đảng, nhà nước (?), quốc hội và chính phủ. Hàng ngày đất nước có muôn vàn ví dụ rối rắm chồng chéo nhau như thế. Mọi đề nghị cải cách thể chế chính trị - nhất là vào dịp sửa đổi hiến pháp - để khắc phục sự rối rắm này đều bị bác bỏ - với giải thích: Đấy là cách thực hiện sự thống nhất quyền lực của hệ thống chính trị và của nhà nước dưới sư lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN. Vân vân… 

Ba là: 

Vốn quý nhất của nước ta là con người và vị trí địa kinh tế - địa chiến lược của Việt Nam. Nhiều nước mơ có được lợi thế này. Nhưng nền giáo dục và thể chế chính trị hiện hành là những nguyên nhân hàng đầu cản trở phát huy lợi thế chiến lược này, thậm chí còn gây ra nhiều hậu quả lớn cho đất nước.  

Song nguyên nhân cơ bản nhất hủy hoại lợi thế nói trên và dẫn đến sự yếu kém mọi mặt của đất nước hôm nay là sau khi hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất đất nước, ĐCSVN với tính cách là lực lượng lãnh đạo duy nhất, đã không đặt ra cho mình nhiệm vụ chiến lược hàng đầu là xây dựng bằng được quyền làm chủ đất nước của nhân dân trong một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ, không giúp cho nhân dân tự trau dồi và trang bị cho chính mình quyền năng thực thi quyền làm chủ đất nước của mình. Khỏi phải bàn, cổ nhân đã nói: Dân là chủ nhân mạnh, thì sẽ “thuê” được sự lãnh đạo mạnh của đảng và sự quản lý giỏi của nhà nước; và như thế đảng sẽ mạnh, nhà cũng nước cũng sẽ mạnh, đất nước sẽ hùng mạnh. Cổ nhân cũng nói tiếp: để dân là chủ không ra chủ, để tớ không ra công bộc của dân, thì đất nước lụn bại. Những điều hiển nhiên này đâu có gì xa lạ?!

Song rõ ràng ĐCSVN kể từ 30-04-1975 cho đến hôm nay vẫn không coi thực hiện nhiệm vụ này là tiền đề đầu tiên mang tính quyết định tất cả và mãi mãi cho toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của một nước Việt Nam độc lập thống nhất. 

Không thể đổ lỗi cho nhân dân ta lạc hậu, cho hoàn cảnh quốc tế khắc nghiệt… để thanh minh, để biện hộ…

Đúng ra phải nói: Chính vì xuất phát điểm của nước ta lạc hậu, chính vì bối cảnh quốc tế rất khắc nghiệt, nên sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc kể từ khi giành được độc lập thống nhất nhất thiết phải bắt đầu từ thực hiện bằng được nhiệm vụ chiến lược nêu trên. Bởi vì chỉ một đất nước do nhân dân thực sự làm chủ như thế mới có thể sẽ có tất cả, mới có thể thắng được tất cả mọi thách thức bất kể từ đâu tới. Lãnh đạo là thực hiện sứ mệnh tạo ra cho dân và cho đất nước một sức sống như thế của quốc gia, chứ không phải là ngồi lên dân.

Nhưng từ sau 30-04-1975 cho đến hôm nay ĐCSVN đã và đang có sự lựa chọn khác – mặc dù đảng ghi trên lá cờ của mình: Tất cả vì đất nước, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. 

Nhìn lại, cũng phải nói: Gần 4 thập kỷ đã tiêu phí, và nguồn lực mọi mặt có thể huy động được của đất nước, của truyền thống kiên cường sáng tạo Việt Nam, của trí tuệ văn minh thế giới ngày nay, của bối cảnh toàn cầu hóa… thực ra đã hoàn toàn cho phép ĐCSVN đủ sức hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ sống còn bậc nhất này, nếu đảng coi đấy là sự lựa chọn của mình.  

Nhưng, như đã nói, ĐCSVN đã không lựa chọn như vậy, do đó đã dẫn đến thực trạng đất nước hôm nay. Chính đây là sự thất hứa nghiêm trọng nhất đối với những gì đảng đã cam kết với dân tộc, với đất nước

Sự thất hứa nêu trên đồng thời cũng là thất bại nghiêm trọng nhất của đảng trong toàn bộ lịch sử đấu tranh của mình kể từ khi thành lập, là thắng lợi đáng khiếp sợ nhất của tha hóa trong đảng. Sự thất hứa này còn là nhân tố hàng đầu đang hủy hoại phẩm chất và truyền thống cách mạng của đảng. Sự tha hóa này tạo ra ngay trong đảng kẻ thù không đội trời chung đang nhăm nhăm biến chất và tiêu hủy đảng. 

Bốn là: Phải bắt đầu lại từ chữ tín

Trí tuệ của văn minh nhân loại và bối cảnh thế giới toàn cầu hóa ngày nay trong thời đại tin học hoàn toàn cho phép sự khởi nghiệp của các quốc gia đi sau như nước ta thành công. 

Bí quyết thành công của quốc gia khởi nghiệp đã được trí tuệ của nhân loại đúc kết, đó là thực hiện nghiêm túc các tiêu chí:  (a)quyền sở hữu tư nhân, (b) quyền tự do cá nhân trong khuôn khổ một thể chế chính trị dân chủ, (c) trí tuệ giữ vai trò ưu tiên để trở thành động lực của phát triển. Bí quyết thành công của quốc gia khởi nghiệp còn nằm trong quá trình hoàn thiện và phát triển không ngừng kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự… … Trong thế giới hôm nay, những bí quyết này chẳng còn gì là bí mật, là hoang tưởng, chẳng có gì phải mò mẫm, phải đoán già đoán non như thời đại Nguyễn Trường Tộ, mà đang là hiện thực ngoạn mục của hàng chục nước đi sau ở mọi châu lục. Cũng thực tiễn đáng học hỏi này của các nước đi sau đang khẳng định một thực tế như một nguyên lý: Những bí quyết nêu trên chỉ có thể vận dụng thành công trong một quốc gia lựa chọn con đường phát triển hòa bình của cải cách thường xuyên và triệt để, bắt đầu từ giáo dục… 

Nhưng ĐCSVN đã để mọi việc phải làm trễ mất gần 4 thập kỷ rồi, sự tha hóa đã chiếm được thế thượng phong trong đảng rồi, làm thế nào bây giờ? 

Trả lời:  Vẫn còn kịp, nếu ĐCSVN bắt đầu lại từ chữ tín. 

Trên đời này không thiếu gì một con người thất bại hay một quốc gia đổ vỡ đã lập lại cuộc đời hay khởi nghiệp lại bằng cách bắt đầu từ chữ tín. Cũng không thiếu gì kinh nghiệm sống ở khắp thế gian này: Giữ được chữ tín sẽ làm nên tất cả. 

Còn quan trọng hơn thế, nhân dân ta đủ kinh nghiệm xương máu đã trải qua, đủ hiểu biết những gì đang phải chịu đựng trong chế độ chính trị hiện tại, đồng thời cũng đủ nghị lực, bản lĩnh và sự bao dung để lựa chọn con đường cải cách hòa bình và hòa giải, không mong muốn gì hơn con đường cải cách trong hòa bình, trong hòa giải.  

Tối ưu nhất đối với đất nước trong tình hình hiện nay chính là ĐCSVN – với tính cách là lực lượng chính trị mạnh áp đảo – tự đứng lên cởi trói cho bản thân mình, và đồng thời vận động toàn dân khai phá con đường cải cách này. Có đủ căn cứ để nói: Cho đến giờ phút này, nhân dân vẫn sẽ hoan nghênh, vẫn sẽ chấp nhận sự lựa chọn này của đảng. Vâng, cho đến giờ phút này. Bởi vì đấy là con đường ngăn chặn tái diễn thảm cảnh nồi da xáo thịt, là con đường sống của cả đất nước, cả dân tộc. Có thể dám chắc nhiều đảng viên chân chính có hiểu biết thấy rõ được thực trạng của đảng và của đất nước, tán thành con đường cải cách. Nhiều người trong số họ đã công khai có những ý kiến tâm huyết và trí tuệ về giải pháp, về cách tiếp cận con đường cải cách.  

Có thể khẳng định trong nhân dân và trong đảng có đủ trí tuệ và năng lực cho một cuộc cải cách vĩ đại rất xứng đáng với tầm vóc của đất nước. Chất xám của thế giới có thể huy động được cho sự nghiệp cải cách vĩ đại này không thiếu. Cả thế giới tiến bộ chắc chắn hậu thuẫn nỗ lực này của đất nước ta.

Để có được con đường cải cách như thế, ĐCSVN hãy bắt đầu từ thực hiện chữ tín với nhau trong đảng, và đồng thời thực hiện chữ tín của đảng đối với dân. 

Việc đảng thực hiện chữ tín của mình đối với dân hãy bắt đầu từ việc đảng thực hiện nói thật, nói đi đôi với làm, từ việc đảng để cho dân nói và chịu nghe dân nói, đồng thời thực hiện công khai minh bạch để tất cả cùng nhau xác nhận chữ tín.

Bắt đầu các khâu chuẩn bị từ hôm nay, có còn cách nào tốt hơn để xúc tiến đại hội XII không?  

Nếu ĐCSVN không tìm cách bắt đầu lại từ chữ tín, đại hội XII chắc chắn sẽ không thể đi quá được cái vạch đã định sẵn từ các đại hội trước: Cuối cùng sẽ chỉ thực sự làm được mỗi một việc là quyết định ai ở ai đi trong “ê-kíp” lái tầu mới mà thôi, còn con tầu đảng vẫn lao tiếp trên con đường đang đi, với quy luật muôn đời là: đường nào đích nấy, nhân nào quả ấy. 

Nếu quyết không phản bội lại truyền thống cách mạng của chính mình, không phản bội lại hy sinh của dân tộc, ĐCSVN hoàn toàn có đủ điều kiện bắt đầu lại từ chữ tín./. 

Hà Nội, ngày 12-02-2014
 ..........................................
Tài liệu tham khảo

Nguyễn Trung, “Chữ tín”, bài viết cho tạp chí Văn hóa Phật giáo – TPHCM, số mùa Thu năm 2012: nguyentrung-vt.blogspot.com – nhãn AAA nhật ký.


[1] Trên thực tế từ sau 30-04-1975 (trước đó không tính), thiết nghĩ nước ta cũng không thoát khỏi hiện tượng phổ cập nhiều nơi trong lịch sử thế giới là “cách mạng thường ăn thịt những đứa con của mình”.